Nghỉ hưu, dọn nhà sang Việt Nam!
Khi chi phí chăm sóc y tế và giá sinh hoạt tăng ở nhiều nước, không ít người nước ngoài về hưu đã tìm đến Việt Nam – một trong những nước được đánh giá có môi trường sống thân thiện, mức sống không đắt đỏ, nhiều món ăn ngon và cảnh đẹp.
Không phải ngẫu nhiên khi trong bài báo đăng ngày 28-12 trên tờ New York Post (Mỹ), Việt Nam là nước được liệt kê đầu tiên trong danh sách xếp hạng 12 quốc gia tốt nhất dành cho người hưu trí.
Ngoài ra, mới đây tờ Los Angeles Times cũng đăng bài viết khẳng định ngày càng nhiều người Mỹ đang tới Việt Nam nghỉ hưu vì phí chăm sóc sức khỏe rẻ và mức sống phải chăng.
“Yêu” từ cái nhìn đầu tiên
Ở tuổi 70, ông Herby Neubacher đã có hơn 19 năm sống tại thành phố biển Nha Trang, nơi mà ông gọi một cách thân thương là “thành phố quê hương của tôi bây giờ”. Ông tới Việt Nam lần đầu năm 2000 để tham dự hội thảo về thị trường hải sản ở Đức và quy định hàm lượng kháng sinh trong cá, hải sản của EU.
Dù ở lại không nhiều ngày nhưng ông đã nộp đơn ứng tuyển vị trí chuyên gia của Tập đoàn SIPPO kết nối với Hãng Nestlé để làm việc trong lĩnh vực giáo dục. “Tôi đã yêu đất nước này ngay lập tức”, ông chia sẻ với Tuổi Trẻ. “Đã có nhiều thứ thay đổi so với lúc đó, thành phố nhỏ của ngư dân ngày nào giờ đã thành trung tâm du lịch, nhưng tôi vẫn hạnh phúc khi về hưu và sống ở đây cùng vợ (người Việt – PV). Tôi thỉnh thoảng vẫn tư vấn cho các công ty cá tra, còn vợ tôi tư vấn cho các công ty châu Âu, giúp họ hiểu hơn về Việt Nam”, ông chia sẻ thêm.
Trong cảm nhận của một người châu Âu, ông Herby Neubacher thấy Việt Nam là nơi ông có sự độc lập và tự do làm những điều mình thích. Sự mở lòng và sẵn sàng tìm hiểu, chấp nhận văn hóa nước khác của người Việt khiến ông luôn thấy mình được chào đón, chấp nhận. “Dù không nói rành tiếng Việt nhưng tôi chưa bao giờ gặp rắc rối trong giao tiếp với những người Việt quanh mình”, ông Herby Neubacher chia sẻ.
Khác với ông Herby Neubacher, hành trình đến với Việt Nam ở tuổi xế chiều của ông L. Dennis Woolbright, người Mỹ, 74 tuổi, đang sống tại Trà Vinh, có vẻ “ngoằn ngoèo” hơn một chút. Ông sống ở Mỹ đến năm 40 tuổi rồi lấy bằng thạc sĩ sư phạm, sau đó chuyển sang Nhật dạy học. Ban đầu ông chỉ định ở đó một năm rồi về, nhưng sau đó vì mê châu Á mà ông ở lại tới… hơn 30 năm. Ông cưới vợ người Nhật và có hai con.
Sau 30 năm giảng dạy đại học, ông về hưu ở tuổi 72 và xin phép… vợ tới Việt Nam dạy tiếng Anh như một đam mê. Chỉ mới sống ở Việt Nam hai năm, song với ông L. Dennis Woolbright, cảm giác thích nhất vẫn là thấy mình còn có ích, còn nhiều người cần ông và ông cũng thích giúp đỡ mọi người. Ông rất thích tết của người Việt Nam và khoe: “Năm ngoái tôi được 12 gia đình mời đến nhà chơi trong vòng 10 ngày!”.
Nhiều người Mỹ đến Việt Nam sống
Nhà báo Ralph Jennings, tác giả của bài báo “Những người Mỹ đang tới Việt Nam nghỉ hưu vì phí chăm sóc sức khỏe rẻ và mức sống tươm tất” đăng trên báo Los Angeles Times mới đây, chia sẻ với Tuổi Trẻ rằng kể từ sau năm 1975, mỗi người Mỹ đều có lý do để trở lại Việt Nam, nhưng một trong số đó là việc nhiều người tìm đến Việt Nam như một chốn an dưỡng tuổi xế chiều bởi giá nhà ở (thuê/mua) không quá đắt, chi phí y tế rẻ và mức sống ngày một nâng cao.
Một trong những người nhà báo Ralph đã phỏng vấn là ông John Rockhold. Sau khi kết thúc sự nghiệp quân ngũ, ông Rockhold trở thành nhà thầu quốc phòng, chủ yếu làm việc tại châu Phi. Lần đầu tiên ông trở lại Việt Nam năm 1992 theo một chương trình hỗ trợ những người tị nạn kinh tế.
Ông định cư tại Việt Nam năm 1995, cũng là năm Việt Nam và Mỹ chính thức bình thường hóa quan hệ. Năm 2009 ông kết hôn với một phụ nữ Việt. Thực sự thì ông Rockhold thích Việt Nam tới mức ông đã thuyết phục mẹ mình tới Việt Nam. Khi đó bà đang ở Santa Maria, bang California. “Bà tới dự đám cưới tôi và quyết định ở lại luôn” – ông Rockhold kể và cười lớn. Mẹ ông Rockhold đã sống với ông cho tới năm 2015 thì bà qua đời, thọ 94 tuổi.
Theo chia sẻ của ông Rockhold với anh Ralph Jennings, các hàng xóm của nhà ông rất vui vẻ, hòa nhã. “Người Việt Nam rất tử tế với tôi, nhất là nếu so sánh với chính quê nhà ở Mỹ khi tôi trở về sau chiến tranh” – ông Rockhold nói. Ở tuổi hưu trí, ông Rockhold vẫn rất bận rộn trong công việc kinh doanh nhập khẩu gas tự nhiên hóa lỏng vào Việt Nam và tham gia công tác từ thiện giúp cung cấp năng lượng mặt trời cho các hộ gia đình thu nhập thấp. Ông cựu binh này cũng rất ấn tượng trước sự cải thiện đáng kể về chất lượng dịch vụ y tế ở Việt Nam.
Cần có chính sách thu hút rõ ràng
Giống như ông Rockhold, ông Rick Ellis (62 tuổi, người Canada) – từng có hơn 4 thập kỷ sống tại nhiều nước khác nhau trên thế giới, trong đó có 11 năm sống luân phiên tại 6 quốc gia Đông Nam Á – thậm chí còn cho rằng trong số các nước ông từng sống suốt nhiều thập kỷ qua, người Việt Nam là những người thân thiện nhất.
Ông Rick Ellis cho biết Việt Nam chưa có một chương trình visa chính thức dành riêng cho đối tượng hưu trí người nước ngoài nên rất khó để xác định chính xác tổng số người nước ngoài về hưu đang sinh sống tại đây. Dù vậy, theo tìm hiểu và ước tính của ông Rick Ellis, con số đó phải trên 100.000 người, hầu hết vẫn đang làm việc hoặc là các chủ doanh nghiệp.
Việc chưa có một chính sách thị thực riêng dành cho người hưu trí nước ngoài ở Việt Nam là một trong những yếu tố chính khiến nhiều người dù rất yêu Việt Nam, muốn đến Việt Nam nghỉ hưu đã phải cân nhắc lại. Dù đã ở Việt Nam tới 8 năm nhưng ông Bill Harany (76 tuổi, người Canada) cũng thừa nhận ông chưa hoàn toàn nghĩ tới việc sẽ sống ở đây mãi, cũng bởi vấn đề thị thực, bên cạnh các khó khăn khác như thách thức học tiếng Việt, tình hình giao thông… Ông Rick Ellis có hai người bạn cũng ở hoàn cảnh này, họ muốn tới Việt Nam nghỉ hưu nhưng ngần ngại vì không yên tâm chuyện visa.
Trên thực tế, đang có một sự cạnh tranh không nhỏ giữa các nước ASEAN trong việc thu hút những người hưu trí nước ngoài “phù hợp”, tức những người có thu nhập ổn định, không tiền án tiền sự, không tham gia hoạt động phi pháp, gây bất ổn chính trị, xã hội. Theo ông Rick Ellis, tại Đông Nam Á các nước đã có chính sách visa hưu trí gồm Thái Lan, Malaysia, Philippines, Indonesia, trong khi Lào, Việt Nam và Campuchia chưa có.
Ở những nước có chương trình thị thực hưu trí, một trong những điều kiện ràng buộc là người nước ngoài thuộc diện này phải chứng minh được mức thu nhập trung bình tối thiểu theo tiêu chuẩn quy định, đảm bảo cho họ có thể sống ổn định mà không thành gánh nặng với địa phương sở tại. Ở Thái Lan quy định là 2.000 USD/tháng, Malaysia là 2.200 USD/tháng, Philippines là 800 USD/tháng và Indonesia là 1.500 USD/tháng. Ông Rick cho rằng yêu cầu 800 USD của Philippines là thực tế nhất và có thể là một hạn mức để Việt Nam tham khảo nếu muốn triển khai chương trình tương tự.
Tuy nhiên, tiền chưa phải là tất cả. Điều quan trọng hơn khi muốn biến chính sách thị thực hưu trí trở thành nguồn thu ngoại tệ tốt cho ngân sách thì quy trình rà soát, thẩm tra và cấp thị thực là công đoạn cần được thực hiện chặt chẽ. Từ quan điểm của một nhà quản lý doanh nghiệp và kinh nghiệm sống tại nhiều quốc gia, ông Rick Ellis cho rằng việc này hoàn toàn làm được nếu có sự phối kiểm, liên hệ giữa cơ quan quản lý di trú với các đại sứ quán, lãnh sự quán các nước.
Theo ông Rick Ellis, nếu có chính sách tốt giúp tạo điều kiện cho tất cả những người nước ngoài phù hợp có thể đến Việt Nam nghỉ hưu thì đó sẽ là nguồn lợi kinh tế không nhỏ. Chuyên gia này cho rằng do có nhiều đặc điểm tương đồng, Việt Nam hoàn toàn có thể tham khảo thêm thông tin, cách làm của chính sách visa hưu trí cho người nước ngoài của Thái Lan bởi quốc gia này cũng chỉ vừa mới chính thức phê chuẩn chương trình này trong năm 2019.
Những điều Việt Nam cần cải thiện
Ông Herby Neubacher: Ồn quá!
Dù thích sống ở Việt Nam nhưng cũng có một số điều tôi nghĩ nếu được cải thiện sẽ càng tốt hơn nữa. Theo tôi, một trong những vấn đề lớn ở đây là rác thải khắp nơi. Ý thức bỏ rác đúng nơi quy định vẫn chưa cao, không phải không có thùng rác nhưng người ta lại vứt rác… bên cạnh thùng rác. Khi tôi hỏi vì sao làm vậy, họ trả lời vì thùng rác dơ lắm, họ không muốn đụng vào. Logic này chắc chỉ có ở Việt Nam!
Một điều nữa là tiếng ồn, ví như khi người đi nhà hàng nói chuyện quá ồn ảnh hưởng đến người khác, rồi trẻ con la hét inh ỏi. Đó là chưa kể tình trạng hát karaoke gây ồn, có khi người ta còn hát suốt đêm, nhất là dịp tết. Nhắc họ thì họ nói “năm mới mà” rồi lại tiếp tục.
Ông L. Dennis Woolbright: Bớt ngập sẽ tốt hơn
Trong tương lai, tôi hi vọng Việt Nam sẽ có thêm nhiều tiến bộ trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, chẳng hạn như đường sá và các công trình thoát nước tốt hơn. Những thứ này rất quan trọng đối với sức khỏe mọi người. Tôi cũng mong hệ thống chăm sóc sức khỏe ở Việt Nam có thể được cải thiện tốt hơn nữa. Nhiều người sẽ đến Việt Nam nghỉ hưu nếu họ thấy công tác chăm sóc sức khỏe ở đây tốt hơn.
Bán tất cả để qua Việt Nam
Tôi sinh năm 1967, khi cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam đã xảy ra nhiều năm. Úc gửi quân tham chiến ở Việt Nam, cha tôi đóng quân ở Biên Hòa từ tháng 5-1965 đến tháng 6-1966. Tôi lớn lên trong những năm tháng phải nghe về chiến tranh và những thông tin tiêu cực về Việt Nam.
Ở nơi tôi sống có nhiều người Việt Nam. Gần trường tôi học còn có một cửa hàng bánh của người Việt Nam và họ là những người tốt bụng nhất tôi từng gặp. Cô bán bánh thỉnh thoảng hay cho tôi một cái khi tôi đi mua bánh với mẹ. Tôi bỗng có mơ ước phải chứng minh rằng những điều mà tôi bị bắt nghe là không đúng.
Đầu tháng 8-2012, tôi và con trai đến TP.HCM. Tôi vẫn nhớ cảm giác nhìn qua cửa sổ máy bay và trông thấy Việt Nam lần đầu tiên trong đời. Là Việt Nam, là TP.HCM. Nước mắt lăn trên má, tôi nói với con trai: “Mình tới rồi con ơi!”. Tại sân bay, tôi gặp một cô gái mặc áo dài màu thiên thanh, đội nón lá. Với tôi, cô gái ấy hệt như một thiên thần mà tôi vẫn luôn mơ đến khi còn nhỏ. Cô ấy mỉm cười nhìn tôi bằng một ánh mắt tôi chưa từng thấy trong đời.
Chín ngày sau, chúng tôi bay về Úc. Tôi tự hứa sẽ quay trở lại đây, sớm thôi. Mọi thứ nhanh chóng thay đổi khi tôi về lại Úc với nỗi trống rỗng. Một năm mười ngày sau đó, tôi bán hết mọi thứ và chuyển sang Việt Nam. Chỉ khi ở Việt Nam, tôi mới thấy mình được trọn vẹn.
Tôi đến Việt Nam và bắt đầu cuộc đời mới với công tác thiện nguyện, dạy học và viết lách. Đến nay, bằng việc dành toàn tâm toàn ý cho đất nước này, cho những con người tuyệt vời đã gặp, tôi có thể nói lời xin lỗi, theo cách riêng bí mật của mình. Tôi muốn xin lỗi vì đã nghĩ xấu về Việt Nam vì chiến tranh, tôi đã sai khi đổ lỗi cho Việt Nam vì những rắc rối của gia đình mình. Khi biết được sự thật về cuộc chiến, tôi thấy mình cần xin lỗi vì những gì gia đình tôi đã làm ở đất nước này.
Ông Ray Kuschert (người Úc, 52 tuổi, đang sống tại TP.HCM)
Ngọc Đông/TTO