“Việt Nam được gì từ chính sách chống dịch nghiêm ngặt của Trung Quốc?”
Chính là câu hỏi mà trang Deutsche Welle (DW) của Đức vừa đăng tải, nhằm nói về những nỗ lực của Việt Nam trong việc thu hút chuyển đổi sản xuất giữa bối cảnh nước láng giềng Trung Quốc đang lao đao bởi dịch bệnh.
Trên thực tế, xu hướng này đã được định hình trong nhiều năm trở lại đây và dịch Covid-19 chính là chất xúc tác khiến cho sự dịch chuyển diễn ra nhanh chóng hơn. Thông qua đó, trang DW đã đưa ra những xu hướng dịch chuyển sản xuất từ Trung Quốc vào Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Từ đó đưa ra được những khuyến nghị giải pháp góp phần đẩy mạnh việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam.
Theo DW, hàng loạt các ông lớn tòa cầu: Nike, Adidas, Foxconn, Intel, Samsung… đã và đang mở rộng sự hiện diện tại Việt Nam cho thấy môi trường đầu tư, kinh doanh vẫn ổn định và có tiềm năng tăng trưởng tốt.
Mới đây, hãng CNBC dẫn báo cáo tài chính của Nike cho biết, năm 2021 Việt Nam sản xuất giày cho Nike chiếm 51% sản lượng toàn cầu của hãng, trong khi tỷ lệ này tại Trung Quốc đã rớt xuống còn 21%. Hồi năm 2006, Trung Quốc sản xuất giày cho Nike chiếm 35% sản lượng toàn cầu của hãng. Như vậy Việt Nam đã chính thức vượt xa Trung Quốc, trở thành cơ sở sản xuất chính cho thương hiệu này.
Truyền thông Trung Quốc đưa tin, Nike không phải là hãng duy nhất có số lượng lớn sản phẩm được sản xuất tại Việt Nam. Ngay cả đối thủ của hãng là Adidas cũng đi theo hướng tương tự, với 40% sản lượng giày dép được sản xuất ở Việt Nam.
Thực chất, từ cuối năm 2021, các nhà máy Nike tại Việt Nam đã quay lại hoạt động bình thường sau giai đoạn bị ảnh hưởng vì phòng chống dịch Covid-19. Lãnh đạo Nike tại Việt Nam cũng cho rằng với chiến lược sống chung an toàn với dịch bệnh và độ phủ vắc xin cao tại Việt Nam, hãng vẫn đặt niềm tin và lạc quan với chuỗi cung không còn bị đứt đoạn.
Đại diện một doanh nghiệp ngành da giày cho rằng Việt Nam thu hút được Nike hay Adidas và đơn hàng ngày càng tăng chủ yếu do nguồn lao động dồi dào. Thêm vào đó là nhân công có kỹ năng tay nghề cao và ổn định, đảm bảo được chất lượng sản phẩm theo yêu cầu từ đối tác.
Đồng thời chi phí nhân công, sản xuất vẫn thấp hơn Trung Quốc. Đó là chưa kể Trung Quốc vẫn đang áp dụng chính sách “Zero Covid” khiến các tập đoàn sản xuất lo ngại chuỗi cung ứng bị đứt gãy bởi các biện pháp khắt khe để phòng chống dịch bệnh.
Thực tế, không chỉ có Nike hay Adidas mở rộng hoạt động tại Việt Nam mà trong vòng 2 năm qua, đã có không ít doanh nghiệp FDI chuyển sản xuất hoặc mở rộng đầu tư sang Việt Nam.
Ngay từ đầu năm 2021, Tập đoàn công nghệ Foxconn (Đài Loan), nhà sản xuất hàng điện tử theo hợp đồng lớn nhất thế giới, đã vào tỉnh Bắc Giang với dự án nhà máy Fukang Technology. Dự án này chuyên sản xuất máy tính bảng và máy tính xách tay với công suất khoảng 8 triệu sản phẩm/năm, tổng vốn đầu tư đăng ký 270 triệu USD. Trước đó, tất cả sản phẩm iPad đều được lắp ráp tại Trung Quốc.
Không chỉ thế, ngay cả các đối thủ của Foxconn như Pegatron và Wistron cũng quyết định mở rộng sản xuất tại Việt Nam. Cụ thể, vào tháng 9.2020, Pegatron đã đầu tư 1 tỉ USD vào cơ sở sản xuất thiết bị điện tử ở Hải Phòng.
Tương tự, thị trường đã chứng kiến làn sóng dịch chuyển của Hanwa (Hàn Quốc) về sản xuất phụ tùng máy bay đã di dời sang Hà Nội; Yokowo (Nhật Bản) về sản xuất thiết bị trên xe có động cơ đã di dời sang Hà Nam; Huafu (Trung Quốc) về dệt may đã di dời sang Long An…Đồng thời, một số thông tin cho thấy nhiều tập đoàn khác như Sharp, Nintendo và Komatsu từ Nhật Bản, Lenovo từ Hồng Kông đã công bố kế hoạch chuyển đến hoặc mở rộng sản xuất tại Việt Nam…
Hay trong năm 2021, dự án đầu tư nước ngoài lớn tại Việt Nam có mở rộng đáng lưu ý nhất là LG (Hàn Quốc) rót thêm 1,4 tỉ USD, nâng tổng vốn đầu tư tại Hải Phòng lên 4,65 tỉ USD, trở thành dự án FDI lớn nhất tại địa phương này.
DW nhận định rằng, xu hướng này sẽ tiếp tục phổ biến hơn, thực tế đang ngày càng có nhiều doanh nghiệp đa quốc gia tìm cách xây dựng cơ sở sản xuất tại Việt Nam. Thậm chí, một số ý kiến cho rằng, Việt Nam như là “ngôi sao đang lên” của các chuỗi sản xuất cung ứng tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Theo Ngân hàng Thế giới (WB), diễn biến dịch Covid-19 vẫn rất phức tạp, nhưng thu hút FDI vào Việt Nam vẫn tăng, chứng tỏ nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục duy trì lòng tin với Việt Nam.
Giải pháp nào để Việt Nam tự thu hút dịch chuyển đầu tư về mình?
Theo tác giả, Việt Nam là một địa chỉ tiềm năng để thu hút làn sóng dịch chuyển đầu tư từ Trung Quốc, tuy nhiên, để tận dụng tốt cơ hội này đòi hỏi Việt Nam cần có những giải pháp cụ thể và phù hợp với tình hình thế giới. Một số giải pháp đã được tác giả gợi ý như sau:
Thứ nhất, Việt Nam nên thành lập tổ công tác đặc biệt và tổ công tác nhận được sự ủy quyền của Thủ tướng để đi đàm phán với các tập đoàn, các doanh nghiệp có ý định dịch chuyển đầu tư khỏi Trung Quốc.
Cần sớm xây dựng và công bố chính sách thu hút dịch chuyển dòng vốn đầu tư; trong đó, cần nêu rõ lĩnh vực ưu tiên, địa phương ưu tiên (gắn với quy hoạch tổng thể, tránh cạnh tranh không lành mạnh giữa các địa phương). Cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, là việc ra các quyết định chính sách nhanh chóng và làm sao có được “chính sách ổn định, minh bạch và dễ tiên lượng”.
Thứ hai, Việt Nam nên đón làn sóng dịch chuyển đơn hàng trước, dịch chuyển nhà máy sau. Trong khi các công ty trên toàn cầu co cụm vì dịch bệnh, việc mở thêm các nhà máy ở Việt Nam cũng là điều khó thực hiện ngay lập tức. Chính vì vậy, cái dễ nhất mà Việt Nam có thể đón chính là dịch chuyển đơn hàng sang sản xuất ở Việt Nam trước.
Thứ ba, trong quá trình xây dựng hệ thống công nghiệp hỗ trợ. Việt Nam cần có kế hoạch chi tiết hình thành các tổ hợp, liên danh công nghiệp hỗ trợ gồm các doanh nghiệp nhỏ, các cụm liên kết sản xuất (industrial cluster). Hoặc có biện pháp cụ thể ưu đãi cho các công ty công nghiệp hỗ trợ cỡ vừa hiện nay đầu tư mở rộng sản xuất.
Ngoài ra, các khu công nghiệp cần ưu tiên mở rộng, xây mới, các khu công nghiệp cần thu hẹp, thu lại; công bố danh sách các khu công nghiệp có quỹ đất sạch, cơ sở hạ tầng sẵn sàng. Công bố công khai thông tin về giá, ưu đãi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Đồng thời nâng cao năng lực của các bộ phận tham mưu bao gồm các sở, ban, ngành của tỉnh, cơ quan của ban quản lý khu công nghiệp để tham mưu cho các ban quản lý biết cách lựa chọn nhà đầu tư và dự án đầu tư phù hợp.
Cuối cùng là đẩy mạnh việc chuẩn bị nhân lực chất lượng cao. Công tác đào tạo nhân lực chất lượng cao thời gian qua đã được cải thiện đáng kể (nhiều tập đoàn Hàn Quốc, Nhật Bản đã công nhận điều này). Trong thời gian tới, Việt Nam cần tiếp tục phát huy và hướng tới đối tượng doanh nghiệp phương Tây.
Lan Hoa (Theo Deutsche Welle)