Một cái tên, hai anh hùng dân tộc!
Trong lịch sử cách mạng hiện đại Việt Nam, có một trường hợp 2 người trùng tên và cả 2 đều là những người anh hùng kiệt xuất, góp phần to lớn vào thắng lợi của Cách mạng Việt Nam.
Một người là nguyên Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội, Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội Khuất Duy Tiến và một người là Trung tướng, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Khuất Duy Tiến.
Đồng chí Khuất Duy Tiến – Nguyên Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội, Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội.
Theo lý lịch tự khai, ông Khuất Duy Tiến sinh ngày 6/3/1910. Năm 16 tuổi, đang học ở trường Bưởi, ông đã tham gia phong trào yêu nước của học sinh Hà Nội, bãi khóa để tang nhà yêu nước Phan Chu Trinh. Sau đó, ông tham gia vào tổ chức Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội, rồi Đông Dương Cộng sản Đảng.
Năm 1929, thực hiện chủ trương của Đông Dương Cộng sản Đảng, ở tuổi 19, khi đang là sinh viên trường Cao đẳng Thương mại ở Hà Nội, Khuất Duy Tiến đi “Vô sản hóa”, để có điều kiện vận động công nhân.
Hai chàng trai trẻ cùng tuổi 19 thời ấy là Khuất Duy Tiến và Ngô Duy Ngụ (quê ở Hưng Yên) đã rời bỏ cuộc sống tương đối an nhàn của giáo viên và sinh viên đang có học bổng. Họ cùng nhau xuống Nam Định, vào làm việc ở nhà máy điện để làm việc và đấu tranh cùng công nhân lao động.
Theo quy định của điều lệ Đảng ngày ấy, ai là công nhân vào Đảng, chỉ làm đảng viên dự bị có 3 tháng là được trở thành đảng viên chính thức. Còn xuất thân tiểu tư sản như Khuất Duy Tiến, ông phải mất từ 10 đến 12 tháng mới được chuyển đảng chính thức. Tuy nhiên, do tích cực hoạt động nên chỉ sau gần 2 tháng dự bị, Chi bộ đã đề nghị công nhận ông là đảng viên chính thức.
Tháng 3/1930, ông Khuất Duy Tiến được bầu làm Tỉnh ủy viên Tỉnh ủy Nam Định, phụ trách các Đảng bộ Nam Định, Thái Bình. Cuối năm 1930, ông làm Ủy viên Thường vụ xứ ủy Bắc Kỳ, phụ trách khu vực Hải Phòng.
Tháng 4/1931, do sự phản bội của Nghiêm Thượng Biền, Xứ ủy viên Bắc Kỳ, ông Khuất Duy Tiến cùng nhiều cán bộ cao cấp khác bị thực dân Pháp bắt và đày ra Côn Đảo. Năm 1936, sau 6 năm ở địa ngục trần gian, nhờ phong trào Mặt trận Bình dân, ông được tha tù và trở về Hà Nội, tiếp tục phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc.
Trở về Hà Nội, ông lại lao vào đấu tranh dân chủ. Thời gian này, hàng loạt tờ báo tiếng Pháp và tiếng Việt dưới sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương xuất bản công khai. Tờ này bị cấm, tờ khác xuất hiện. Báo tiếng Việt có các tờ Thế giới, Đời nay, Tin tức, Ngày mới. Thanh niên dân chủ có tờ Bạn dân. Báo tiếng Pháp có các tờ Rassemblement (Tập hợp), Notre Voix (Tiếng nói chúng ta) và báo Le Travail (Lao động)…
Ông Tiến gia nhập nhóm viết báo Le Travail và là một ký giả có những bài báo gây chú ý dư luận trong nước và cả ở Pháp. Những bài viết của ký giả Khuất Duy Tiến đã tạo ra niềm phấn khích cho công nhân mỏ trong cuộc đấu tranh. Vì vậy, ngày 16/4/1937, nhà cầm quyền thực dân Pháp ra lệnh đóng cửa tòa báo sau 7 tháng với 30 số đến tay bạn đọc.
Vẫn trong không khí đấu tranh của báo chí tự do, cùng với các ông Trần Huy Liệu, Đào Duy Kỳ, Phan Tử Nghĩa, Võ Nguyên Giáp, ông Khuất Duy Tiến đã tham gia tổ chức Hội nghị Báo giới Bắc Kỳ và thành lập Hội Ái hữu báo giới Bắc Kỳ. Hội nghị lần thứ nhất của báo giới Bắc kỳ họp ngày 24/4/1937 tại Hội quán CSA số 1 phố Charles Coulier (sau này là câu lạc bộ Thể dục thể thao phố Khúc Hạo).
Lần đầu tiên trong lịch sử báo chí nước ta, ngày 24/4/1937, Hội nghị Báo giới Bắc kỳ với 200 đại biểu được tổ chức ngay tại Hà Nội. Hội nghị cử ông Võ Nguyên Giáp làm Chủ tịch và ông Trần Huy Liệu làm Phó Chủ tịch Ủy ban Báo chí. 2 tháng sau, ngày 9/6, Hội nghị Báo giới họp lần 2 với 137 đại biểu báo giới Trung – Nam – Bắc để bàn việc thành lập nghiệp đoàn và bầu Ban trị sự. Các ông Võ Nguyên Giáp, Trần Huy Liệu và Khuất Duy Tiến tham gia Ban Trị sự.
Ông Trần Huy Liệu trong hồi ký “Mặt trận dân chủ Đông Dương” (1960) đã bình luận: “Các anh Khuất Duy Tiến, Đặng Xuân Khu, Hạ Bá Cang, Đặng Châu Tuệ, Tống Phúc Chiểu… nhập ngay với nhóm Le Traivail… Báo Le Travail đã trở thành diễn đàn rộng rãi của nhân dân tố cáo những áp bức của bọn cầm quyền Pháp và các quan lại địa phương”.
Tháng 7/1938, được sự đồng thuận của Mặt trận dân chủ Đông Dương, ông Khuất Duy Tiến ra tranh cử vào Viện Dân biểu Bắc Kỳ. Kết quả, với 491/598 phiếu bầu, ông trúng cử vào Viện Dân biểu. Nhưng chính quyền thực dân Pháp đã gạt ông khỏi danh sách trúng cử với lý do mới ra tù, chưa được phục hồi quyền công dân. Ông bị trục xuất về quê hương Trạch Mỹ Lộc. Năm sau, 1939, do vẫn tiếp tục hoạt động gây dựng cơ sở cách mạng ở địa phương, ông bị bắt, đày lên Bắc Mê (Hà Giang).
Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945), ông Khuất Duy Tiến thoát khỏi nhà tù Bắc Mê, về Hà Nội hoạt động. Ban đầu, ông tham gia tổ chức Văn hóa Cứu quốc, truyền bá lý tưởng cách mạng trong giới trí thức cùng các ông Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Huy Tưởng, Vũ Quý, Lê Quang Đạo… Khi cuộc Tổng khởi nghĩa đang tới rất gần, với bí danh là Cát, ông vận động nhân dân nội thành, nhất là những hằng tâm hằng sản trong giới thương gia yêu nước, ủng hộ Việt Minh.
Cụ Hoàng Thị Minh Hồ, một nhà hằng tâm hằng sản hồi đó, một ân nhân của cách mạng, còn nhớ, gia đình được đón tiếp anh Cát trong Mặt trận Việt Minh đến nhà: “Anh Cát đến từ 1h trưa cho đến 5h chiều để nói chuyện về Mặt trận Việt Minh”.
Trước khi ra về, ông Trịnh Văn Bô bắt tay ông Khuất Duy Tiến và định xin đi theo lên cơ sở để tham gia hoạt động cùng anh em. Ông Tiến khuyên ông Bô nên ở lại bởi bây giờ Việt Minh đang cần sự hỗ trợ về kinh tế. Hiểu ý, ngay tuần sau đó, gia đình bà ủng hộ Việt Minh 10 nghìn đồng Đông Dương, có giá trị tương đương 25 lạng vàng.
“Bấy giờ hàng chỉ có nhập vào còn bán ra thì ít nên không có tiền mặt sẵn. Tôi đành phải hẹn anh Cát một tuần sau quay lại lấy tiền. Về sau, gần một tuần mà tiền bán hàng vẫn chưa đủ tiền để ủng hộ nên tôi buộc phải bán theo giá gốc cho lái buôn 17 hòm tơ, mỗi hòm 20 buộc, mỗi buộc 5kg mới đủ một vạn tiền để ủng hộ. Cầm tiền trên tay, anh Cát mừng lắm, anh bảo Việt Minh có cô chú là sống rồi. Thấy thế, tôi bảo sẽ ủng hộ một vạn nữa nhưng hẹn 2 tháng sẽ đưa tiếp…”, cụ bà Hoàng Thị Minh Hồ kể.
Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 30/8/1945, ông Khuất Duy Tiến được tín nhiệm cử làm Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính Hà Nội, rồi Bí thư Thành bộ Việt Minh của Hà Nội (1946). Ông vận động các nhà công thương như ông bà Trịnh Văn Bô – Hoàng Thị Minh Hồ, bà Vương Thị Lai (hiệu Lợi Quyền), ông bà Bùi Hưng Gia, ông bà Nguyễn Hữu Tiệp… tích cực tham gia Tuần lễ vàng ủng hộ tài chính cho Đảng.
Ngày Thủ đô Hà Nội đón đoàn quân chiến thắng lớp lớp tiến về (10/10/1954), trong đó có một người lãnh đạo được các tầng lớp quần chúng yêu mến vô cùng. Ông là Khuất Duy Tiến, Phó Bí thư Thành ủy – Phó Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội. Năm 1957 do sức khoẻ yếu nên ông xin nghỉ công tác. Ông mất tại Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 11/2/1984.
Đồng chí Khuất Duy Tiến – Trung tướng, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân
Đồng chí Khuất Duy Tiến sinh năm 1931 ở Đại Đồng (H. Thạch Thất, TP. Hà Nội), tháng 9/1945, khi mới 14 tuổi, ông Khuất Duy Tiến đã tham gia Việt Minh và tháng 9/1950 nhập ngũ, là chiến sĩ Đại đội 737, Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 48, Sư đoàn 320. Từ năm 1952 đến năm 1954, ông là Tiểu đội phó, Tiểu đội trưởng thuộc Đại đội 27, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 48, Sư đoàn 320.
Năm 1959, vợ chồng ông sinh con trai đầu Khuất Việt Dũng (sau là Trung tướng, nguyên Chính ủy Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng). Tháng 11/1967, Đại úy Khuất Duy Tiến là Tham mưu trưởng Trung đoàn 64, Sư đoàn 320 vào Quảng Trị chiến đấu. Tháng 10/1969, đơn vị rút ra Hà Tĩnh, ông mới biết cha mình đã mất được mấy tháng.
Tháng 11/1970, Thiếu tá Khuất Duy Tiến nhận quyết định làm Trung đoàn trưởng 64, chỉ huy đơn vị tham gia chiến dịch Đường 9 – Nam Lào (Lam Sơn 719) và đã có những quyết định táo bạo trong tổ chức lực lượng, làm thay đổi cục diện trận đánh, tiêu diệt Lữ đoàn dù 3 VNCH ở điểm cao 456 (còn gọi là cứ điểm 31), phá tan tuyến phòng thủ phía tây bắc của địch, bắt sống Đại tá VNCH Nguyễn Văn Thọ. Chiến thắng này là tiếng chuông báo tử cho chính sách “Việt Nam hóa chiến tranh”, “đổi màu da trên xác chết” của Hoa Kỳ.
Tháng 4/1972, ông chỉ huy Trung đoàn 64 và lực lượng phối thuộc của Sư đoàn 320 kiên cường tấn công, tiêu diệt Tiểu đoàn 11 của Lữ đoàn dù 3 VNCH, làm chủ điểm cao 1015 (Charlie), chọc thủng phòng tuyến sông Pô Cô, mở cửa tây mặt trận Tây nguyên.
Giữa tháng 4/1975, khi đang là Trưởng phòng Tác chiến Quân đoàn 3, ông được phong quân hàm thượng tá và nhận nhiệm vụ đốc chiến các đơn vị tiến công căn cứ Đồng Dù, đập tan tuyến phòng thủ mạnh nhất của VNCH ở hướng tây bắc, mở cửa vào Sài Gòn, đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu quân lực VNCH, lúc 11 giờ 30 ngày 30/4/1975.
Ông còn là người mở cửa bắc Phnom Penh, chốt giữ Vị Xuyên. Tháng 2/1978, vừa được cử ra Hà Nội học được gần 3 tháng, ông đã phải quay vào Tây Ninh bảo vệ biên giới. Chiến dịch mùa khô cuối 1979, ông chỉ huy sư đoàn đánh xuyên từ huyện lỵ Memot (tỉnh Kampong Cham, Campuchia) theo đường 7 (Campuchia) tấn công sở chỉ huy mặt trận của Pol Pot ở Krong Suong (tỉnh Tboung Khmum) bằng lực lượng cơ giới hành tiến thọc sâu, trong 1 ngày đã diệt gọn mục tiêu.
Trong chiến dịch giải phóng Phnom Penh đầu tháng 1/1979, Sư đoàn 320 đã kiên cường vượt sông Mê Kông dưới mưa đạn, tấn công làm chủ Thị xã Kampong Cham, mở cửa cho Sư đoàn 10 tiến vào giải phóng Phnom Penh.
Từ đầu năm 1985, khi Sư đoàn 31 của Quân đoàn 3 được tăng cường cho mặt trận Hà Giang, Thiếu tướng Khuất Duy Tiến đã lên Vị Xuyên, đến từng căn hầm, đoạn hào với bộ đội. Từ thực tế chiến trường, ông chỉ đạo làm đường chui, cải tạo các hang đá, hốc núi thành kho trạm, hầm trú ẩn và xây dựng hầm bê tông trên các điểm tựa. Nhờ hệ thống phòng ngự vững chắc, Sư đoàn 31 đã đẩy lùi 5 đợt tiến công lớn của lính Trung Quốc, cho đến khi thay quân.
Không một ai sinh ra để mong muốn được làm anh hùng, ai cũng chỉ muốn sẵn sàng hi sinh máu xương của mình vì nhân dân, vì Tổ quốc. Chiến tranh càng lùi xa, những vị tướng như Khuất Duy Tiến càng day dứt nhớ tiếc đồng đội đã khuất mà trong đó nhiều người còn chưa tìm thấy mộ.
Năm 1989, ông được điều giữ chức Cục trưởng Cục Quân lực – Bộ Tổng Tham mưu; năm 1994, ông được bổ nhiệm giữ chức Hiệu trưởng Trường Sĩ quan Lục Quân 1 và nghỉ hưu năm 1997 khi tròn 66 tuổi.
Tháng 10 năm 2013, Trung tướng Khuất Duy Tiến được Chủ tịch nước ký phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Trong sâu thẳm trái tim ông, danh hiệu đó là danh hiệu chung của toàn thể đồng đội đã cùng ông chiến đấu, nhất là những người đã hi sinh.
Ông chia sẻ những suy nghĩ chân thành đến thắt lòng: “Ngày tôi được phong Anh hùng, hơn 800 anh em Sư đoàn 320 từ 26 tỉnh miền Bắc đã về để chúc mừng. Tôi nói với anh em, khi đeo chiếc Huân chương này, tôi vừa tự hào, vừa cảm thấy nặng nề. 14.000 người lính của Sư đoàn 320 đã hi sinh trong chiến tranh. Trong đó có hơn 3.000 người lính hi sinh ở chiến trường Campuchia. Huân chương này không phải của riêng tôi, mà của tất cả anh em ngồi đây và những anh em đã nằm xuống”.