‘Làm khoa học nghiêm túc bao giờ cũng khó hơn làm khoa học để có cái danh’
Theo GS Nguyễn Văn Tuấn, không chỉ Y – Dược mà các ngành khác có bài đăng báo quốc tế không dễ, bởi làm khoa học nghiêm túc bao giờ cũng khó hơn làm để có cái danh.
GS Nguyễn Văn Tuấn – Viện nghiên cứu Y khoa Garvan, Australia chia sẻ với phóng viên về tiêu chuẩn bài báo quốc tế và đạo đức của các nhà khoa học khi công bố nghiên cứu.
– Ông nghĩ sao về thông tin 36/50 ứng viên xét duyệt công nhận chức danh giáo sư, phó giáo sư ngành Y – Dược năm nay bị tố “gian lận” bài báo quốc tế ?
Tôi nghĩ những ai từng quan tâm đến vấn nạn xuất bản khoa học “dỏm” hay hiện tượng “tập san săn mồi” (predatory journals) thì không ngạc nhiên khi thấy sự việc xảy ra.
Ngay từ đợt xét duyệt chức danh năm 2019, tôi nhận thấy có một số trường hợp ứng viên giáo sư, phó giáo sư có bài báo công bố trên những tập sản xuất bản phi chính thống hay cũng có thể nói là ‘dỏm’. Khi ấy tôi từng nghĩ Hội đồng Giáo sư ngành Y sẽ phát hiện ra để chấn chỉnh, nhưng tôi đã sai.
– Theo ông, các ứng viên giáo sư, phó giáo sư có biết những tập san như GS Nguyễn Ngọc Châu phản ánh không nằm trong danh sách Scopus hoặc ISI ?
Cho đến thời điểm hiện tại, trong Quyết định 37 của Thủ tướng về tiêu chuẩn, xét duyệt chức danh giáo sư, phó giáo sư chưa có quy định cụ thể, định nghĩa về các tập san có uy tín và không có uy tín.
Ở Việt Nam, nhiều nhà khoa học dùng cách phân loại tập san của Scopus theo 4 nhóm Q1, Q2, Q3, Q4. Họ cho rằng, cứ những tập san thuộc nhóm “Q” thì có uy tín. Tôi không đồng ý với cách phân loại đó vì 2 lý do.
Thứ nhất, cách phân loại đó là cách làm của một tập đoàn thương mại và lợi nhuận được ưu tiên hơn khoa học. Thứ hai, ở góc độ đánh giá khác thì không ít tập san trong nhóm Q3 và Q4 có thể xem là ‘dỏm’ và nó không được cộng đồng khoa học công nhận.
Cần có những quy định cụ thể để phân loại tập san chính thống và phi chính thống.
Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn
Những tập san chính thống sẽ do các hiệp hội khoa học làm chủ quản; được xuất bản bởi các nhà xuất bản học thuật (như Elsevier, Springer-Nature, Wiley, Sage, Taylor & Francis, Routledge, Oxford, Cambridge, Harvard, MIT, Academic Press, v.v.). Nếu không do hiệp hội khoa học chủ quản thì do các nhà xuất bản dưới sự quản lí học thuật của các nhà khoa học có uy tín cao trên đấu trường quốc tế.
Hội đồng giáo sư chỉ nên chấp nhận các tập san chính thống, còn các tập san không thuộc đối tượng trên đều sẽ bị loại bỏ.
– Theo ông, vì sao trong quá trình thẩm định, Hội đồng Giáo sư ngành Y và Dược không phát hiện ra những bài báo này để đánh giá đúng tập san nào đủ chuẩn?
Việc phân biệt tập san “dỏm” và tập san chính thống càng ngày càng khó, bởi vì “kỹ nghệ” xuất bản “dỏm” thay đổi liên tục. Có một số tập san từng được đưa vào danh mục Scopus, nhưng sau một thời gian đánh giá bị loại ra do không đạt tiêu chuẩn. Điều đó cho thấy nếu chỉ dựa vào cách phân nhóm từ Q1 đến Q4 là rất dễ sai lầm.
Phải là những người trong chuyên ngành đó thì mới biết rõ. Ví dụ như tập san Journal of the Endocrine Society (chưa có trong danh mục ISI hay Scopus) mọi người không thể phân biệt được đó là chính thống hay phi chính thống. Nhưng với các nhà khoa học về nội tiết học dễ dàng nhận biết đó là tập san này chính thống của Hiệp hội Nội tiết học Hoa Kỳ, do nhà xuất bản Oxford ấn hành.
Để phát hiện được đâu là tập san uy tín thì đòi hỏi các thành viên hội đồng phải có kinh nghiệm nhiều năm công bố khoa học mới có đủ năng lực để đánh giá chính xác các tập san y khoa có uy tín cao.
– Việc các ứng viên giáo sư, phó giáo sư công bố công trình nghiên cứu trên các tập san kém uy tín có được coi là hành vi gian lận nhằm đối phó với Hội đồng xét duyệt chức danh?
Tôi không nghĩ các ứng viên không gian dối, bởi vì họ đã kê khai đầy đủ các bài báo được công bố, kể cả bài báo mà công chúng xem là ‘dỏm’. Vấn đề nằm ở đây là đạo đức công bố (publication ethics).
Đạo đức công bố là những quy ước nhằm nhắc nhở giới khoa học phải thành thật với dữ liệu, phải tuân thủ phương pháp khoa học trong việc xử lí dữ liệu, không công bố theo kiểu nhỏ giọt, không công bố 1 bài trên nhiều tập san, không công bố trên tập san phi chính thống…
Có lẽ cái sai ở đây là các ứng viên giáo sư, phó giáo sư công bố công trình nghiên cứu khoa học trên một số tập san ‘ngoài luồng’ hoặc phi chính thống. Do vậy, chỉ có thể nói rằng họ vi phạm quy ước về đạo đức công bố, chứ không phải gian lận.
Tuy nhiên, theo tôi biết ở Việt Nam chưa có đại học nào có các lớp tập huấn về đạo đức công bố khoa học cho nghiên cứu sinh, chưa nói đến cấp giáo sư. Do đó, nếu họ có sai sót trong công bố trên tập san dỏm thì nguyên nhân là các đại học không có chính sách và quy định về đạo đức công bố, chưa chắc là do cá nhân các ứng viên.
– Có ý kiến cho rằng, việc đăng các bài báo trong lĩnh vực Y – Dược lên các tập chí uy tín cao là rất khó, nên nhiều ứng viên đã chọn cách đăng trên tập san Open Acces. Ông có nghĩ sao về nhận định này và các tập san Open Access có đúng là kém chất lượng không?
Tôi cho rằng nhận định trên là chưa đủ căn cứ. Mỗi ngành đều có những khó khăn và ‘nỗi khổ’ riêng, không riêng gì Y- Dược học. Các đồng nghiệp bên các ngành khoa học xã hội, như kinh tế học chẳng hạn, cũng rất khó để có bài báo công bố trên tập san chính thống. Làm khoa học nghiêm túc thì lúc nào cũng khó hơn làm khoa học theo kiểu tài tử để có cái danh.
Còn việc quy chụp các tập san Open Access là kém chất lượng là không đúng. Một số nhà khoa học đang nhần lẫn giữa thể loại tập san và mô thức công bố.
Các tập san khoa học có thể chia thành 2 thể loại: Chính thống và phi chính thống. Mô thức công bố có thể là “truyền thống” hay ‘Open Access’ (OA).
Các đồng nghiệp ngành khoa học xã hội cũng rất khó để có bài báo công bố tập san chính thống. Làm khoa học nghiêm túc lúc nào cũng khó hơn làm khoa học để có cái danh.
Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn
Mô thức “truyền thống” có nghĩa là tác giả phải trả ấn phí thấp hoặc không có ấn phí, nhưng độc giả phải trả tiền để đọc. Mô thức OA có nghĩa là tác giả phải trả ấn phí cao, nhưng độc giả thì không cần trả tiền để đọc.
Tập san chính thống và có uy tín rất cao (như Nature, Science, Lancet, New England Journal of Medicine) cho phép tác giả chọn mô thức công bố truyền thống hay OA. Còn tất cả các tập san dỏm đều dùng mô thức OA. Tóm lại, không thể quy chụp cứ công bố bài báo nghiên cứu khoa học theo mô thức OA là tập san kém chất lượng hoặc “dỏm”.
– Ông nghĩ thực trạng mua bài để công nhận chức danh đã có từ lâu? Và các nước trên thế giới có tình trạng như vậy không?
Ở Trung Quốc từng có hiện tượng các bác sĩ và giáo sư mua bài từ các công ty truyền thông chuyên sản xuất bài báo khoa học. Các công ty này có khi bán 1 bài báo khoa học cho nhiều tác giả khác nhau.
Họ chia nhỏ các giai đoạn ra để ‘bán’, từ lúc soạn bài báo, nộp bài báo, trả lời bình duyệt cho đến lúc bài báo được công bố. Giá mỗi bài báo hoàn chỉnh từ 2.000 đến 5.0000 USD, tuỳ vào tập san uy tín cao hay thấp.
Ở Việt Nam cũng đã từng xuất hiện quảng cáo bán bài báo khoa học như thế nhưng ở quy mô nhỏ hơn hoặc trên các tập san “dỏm”.
– Quy trình thẩm định một bài báo quốc tế thế nào? Làm sao để phân biệt được đâu là tập san chất lượng, đâu là tập san kém chất lượng?
Với các tập san chính thống, quy trình thẩm định một bài báo khoa học phải kéo dài từ 6 đến 12 tháng, có khi lâu hơn.
Bước đầu, các tác giả sẽ soạn bản thảo và gửi cho ban biên tập. Bước 2, ban biên tập sẽ xem xét và quyết định có gửi cho các chuyên gia độc lập để bình duyệt hay không. Bước 3 là ban biên tập sẽ xem xét bình duyệt mà quyết định từ chối hay cho tác giả cơ hội trả lời bình duyệt.
Bước 4, nếu được cơ hội trả lời bình duyệt, tác giả cũng mất từ 1-2 tháng để nộp lại bản thảo. Bước 5, bản thảo lại được bình duyệt lần nữa. Và cái chu trình chỉnh sửa, bình duyệt đó tiếp tục cho đến khi ban biên tập chấp nhận công bố. Do đó, để công bố được một bài báo khoa học giống như bà mẹ cho ra đời một đứa con, vì cũng tốn thời gian, cũng đau khổ tinh thần và đau đớn thể xác.
Nhưng đối với các “tập san săn mồi” thì họ không có cơ chế bình duyệt, hay có thì cũng chỉ qua loa. Bởi vì mục tiêu của họ là vì tiền, họ không quan tâm đến chất lượng khoa học.
Từng có những bài báo viết toàn điều vô lí, điên rồ, đến chính tác giả cũng không hiểu mình viết gì, nhưng các tập san “dỏm” đều công bố. Đối với các tập san “dỏm”, họ không từ chối bất kỳ bài báo nào dù chất lượng thấp hay cao và thời gian từ lúc nộp bản thảo đến khi được chấp nhận đăng tảo chỉ từ 10 ngày đến 1 tháng.
– Theo ông, nên điều chỉnh các nội dung, tiêu chuẩn trong xét công nhận chức danh giáo sư, phó giáo sư của Việt Nam thế nào cho chặt chẽ hơn?
Từ khi Quyết định 37 của Thủ tướng có hiệu lực, các tiêu chuẩn để công nhận chức danh giáo sư có cải tiến rõ rệt, lấy công bố khoa học làm chuẩn mực. Tuy nhiên các tiêu chuẩn này còn máy móc và chưa toàn diện. Vẫn còn nhiều vấn đề phải bàn thêm và hoàn chỉnh trong tương lai.
Thứ nhất, phải xác định rõ các loại tập san được công nhận và không được công nhận. Tôi không đồng ý áp đặt, lấy danh sách Q1 – Q4 làm chuẩn, nên có sự phân biệt giữa tập san chính thống và phi chính thống.
Thứ hai, phải xác định chỉ có bài báo nguyên gốc (original contribution) mới được công nhận. Không nên tính các bài như ca lâm sàng (case report), tổng quan, bình luận, xã luận.
Thứ ba, bỏ cách làm đếm bài báo. Hiện nay, hội đồng quy định 3 bài cho ứng viên chức danh PGS và 5 bài cho ứng viên GS, những con số này không nói lên điều gì. Thật là vô lý nếu một ứng viên có 5 bài ‘case report’ hay tổng quan trên các tập san phi chính thống cao hơn một ứng viên có 3 bài báo nguyên thuỷ trên các tập san chính thống.
Thứ tư, phải xem xét ứng viên đóng vai trò gì trong bài báo. Có nhiều loại tác giả bài báo (như tác giả chính, tác giả danh dự, đồng tác giả v.v.) Tôi đề nghị nên thẩm định vai trò của ứng viên là tác giả chính của bài báo hay tác giả chịu trách nhiệm với công chúng về bài báo.
Thứ năm, phải có sự ghi nhận đúng đắn về chất lượng nghiên cứu, chứ không thể đánh đồng các ‘công bố khoa học’ đều như nhau. Cách tốt nhất để đánh giá chất lượng nghiên cứu là đọc bài báo. Nhưng một cách gián tiếp khác là qua tập san mà bài báo được công bố.
Chẳng hạn như một bài trên một tập san như Lancet, JAMA, Nature Medicine không thể nào có cùng giá trị với một bài trên một tập san địa phương. Ấy vậy mà hiện nay thì một bài báo trên một tập san Việt Nam có thể có cùng ‘điểm’ với một bài trên tập san Lancet.
Nhưng qua vấn đề năm nay, tôi nghĩ điều ưu tiên số 1 hiện nay là phải có chính sách về việc chọn tập san công bố, đề ra những quy ước về đạo đức công bố khoa học cho tất cả các sinh viên, nghiên cứu sinh, nhà nghiên cứu, đến cấp cao nhất là giáo sư. Nên tham khảo các chương trình huấn luyện ở nước ngoài (và tôi sẵn sàng gíup đỡ) để phát triển những khoá học về đạo đức công bố khoa học.
Tôi nghĩ nếu cải cách theo 5 điểm trên đây thì xu hướng công bố trên “tập san săn mồi” sẽ giảm nhanh và làm sạch môi trường nghiên cứu khoa học ở Việt Nam.
GS Nguyễn Văn Tuấn là Fellow của Hội đồng quốc gia về Y khoa và Y tế Australia và Viện Hàn Lâm Y học Australia. Ông cũng là giáo sư kiêm nhiệm của Đại học New South Wales, và giáo sư của Đại học Công nghệ Sydney. Ông đã và đang phục vụ trong các hội đồng xét duyệt đề bạt chức vụ giáo sư cho nhiều đại học ở Australia, Mỹ và châu Âu.
GS Tuấn có 30 năm kinh nghiệm trong công bố khoa học, đã và đang phục vụ trong nhiều ban biên tập của các tập san Y khoa chuyên về xương, và cũng là người viết phác đồ công bố khoa học cho Journal of Bone Mineral Research (tập san hàng đầu trên thế giới về loãng xương).
PV/VTC