Đường sắt Việt Nam ngày càng lạc hậu
Ngành đường sắt Việt Nam ra đời năm 1881 bằng việc khởi công xây dựng tuyến đường sắt đầu tiên đi từ Sài Gòn đến Mỹ Tho dài khoảng 70 km.
Những năm sau đó, mạng lưới đường sắt tiếp tục được triển khai xây dựng trên khắp lãnh thổ Việt Nam theo công nghệ đường sắt của Pháp với khổ đường ray 1 m. Thời kỳ chiến tranh, hệ thống đường sắt bị hư hại nặng nề.
Đến năm 1986, ngành đường sắt bắt tay vào chương trình khôi phục và hiện đại hóa với mục tiêu đưa đường sắt trở thành ngành vận tải hàng đầu của Việt Nam, đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng kinh tế của đất nước và hòa nhập với đường sắt trong khu vực Đông Nam Á.
Khi đó, đường sắt chiếm tới 30% năng lực vận tải của toàn ngành giao thông. Thế nhưng sau hơn 30 năm, với gần 2.000 km trải dài từ Bắc vào Nam mà đường sắt chỉ còn phục vụ 1,9% nhu cầu vận chuyển toàn quốc. Đỉnh điểm năm nay, thị phần vận tải của ngành đường sắt đang ở mức thấp nhất trong lịch sử khi chỉ chiếm chưa đầy 0,2% sản lượng vận chuyển hành khách và 1,2% sản lượng vận tải hàng hóa.
Một chuyên gia làm việc lâu năm trong ngành đánh giá ngành đường sắt đang ngày càng kém dần và trở nên tụt hậu. Cơ sở hạ tầng cũ kỹ, lạc hậu, lại không được kết nối với các phương thức vận tải khác để khai thác các lợi thế của đường sắt. Hệ thống quản lý ở các ga đường sắt cũng chưa được nâng cấp, chưa được trang bị, ứng dụng hệ thống quản lý hiện đại nên vận hành, khai thác đường sắt còn chưa hiệu quả và đảm bảo an toàn.
Bên cạnh những khó khăn cố hữu liên quan đến hạ tầng, lãnh đạo Tổng công ty đường sắt Việt Nam (VNR) đã nhiều lần chia sẻ nút thắt lớn nhất trong công cuộc phát triển đường sắt chính là cơ chế. Hiện nay, toàn bộ kết cấu hạ tầng đường sắt quốc gia bao gồm hệ thống đường ray, thông tin tín hiệu và các nhà ga đang giao cho VNR trực tiếp quản lý sử dụng, khai thác. Tuy nhiên, việc bảo trì, đầu tư phát triển khối tài sản này đều do ngân sách chi trả. Nhà nước không có vốn, doanh nghiệp có tiền cũng không thể bỏ ra để đầu tư.
“Để giải quyết những tồn tại này, ngoài các biện pháp mang tính cấp bách, cần giải pháp mang tính lâu dài như tăng cường đầu tư, hiện đại hóa cho hệ thống đường sắt Bắc – Nam, kết nối tốt với các phương thức vận tải khác, đặc biệt là các cảng biển quốc tế. Nhu cầu có, tiềm lực có, vấn đề là tất cả các bên phải cùng ngồi lại, đưa ra một cơ chế hiệu quả cho ngành đường sắt, trong đó có thể nghiên cứu phương án xã hội hóa”, TS Nguyễn Anh Tuấn, giảng viên bộ môn đường sắt metro – Trường ĐH GTVT TP.HCM, gợi ý.
(Theo TNO)