Vụ gang thép Thái Nguyên và lời khai của nguyên Thứ trưởng Bộ Công Thương
CQĐT, Bộ Công an vừa hoàn tất kết luận điều tra vụ án xảy ra tại Dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2Công ty gang thép Thái Nguyên và các đơn vị có liên quan.
Theo kết luận điều tra, ông Lê Dương Quang (nguyên Thứ trưởng Bộ Công Thương) khai: Trong thời gian từ năm 20072014, ông là Thứ trưởng Bộ Công Thương, trực tiếp phụ trách Vụ Công nghiệp nặng, Tổng công ty thép Việt Nam (VNS)…
Bộ Công thương trực tiếp xem xét về chủ trương, quy mô đầu tư, thanh tra, kiểm tra trong quá trình triển khai thực hiện Dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2Công ty Gang thép Thái Nguyên (Dự án giai đoạn 2), do Công ty cổ phần Gang thép Thái Nguyên (TISCO) làm chủ đầu tư, cấp quyết định đầu tư là HĐQT VNS.
Trong quá trình triển khai thực hiện Dự án giai đoạn 2, căn cứ các văn bản đề nghị của VNS và tham mưu đề xuất của Vụ Công nghiệp nặng Bộ Công Thương, ông Lê Dương Quang đã ký các văn bản báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét giải quyết những khó khăn, vướng mắc của dự án này.
Các ông Đỗ Cảnh Dương (nguyên Chuyên viên Văn phòng Chính phủ), Nguyễn Văn Tài (nguyên Phó vụ trưởng Vụ kinh tế ngành), Văn Trọng Lý (nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ) khai, họ đều là những người được phân công giải quyết, xử lý các đề nghị của VNS, Bộ Công Thương, liên quan đến giải quyết khó khăn vướng mắc của Dự án giai đoạn 2.
Kết luận điều tra cho rằng, các ông nêu trên đều khai làm đúng chức năng, nhiệm vụ của mình là tổng hợp ý kiến các Bộ, ngành về các vấn đề trên để trình Chính phủ xem xét, quyết định theo đúng quy chế làm việc của Văn phòng Chính phủ, Chính phủ.
Vì đâu nên nỗi?
Theo kết luận điều tra, Dự án giai đoạn 2 do TISCO làm chủ đầu tư, Chính phủ chỉ là cấp có thẩm quyền cho chủ trương đầu tư dự án.
HĐQT VNS tổ chức thẩm định, chịu trách nhiệm phê duyệt dự án. Chủ đầu tư chịu trách nhiệm toàn diện về hiệu quả dự án.
Ngày 12/7/2007, ông Trần Trọng Mừng (nguyên TGĐ TISCO) ký hợp đồng EPC số 01 với Tập đoàn Khoa học Công nghệ và Thương mại luyện kim Trung Quốc (MCC) để xây dựng dây chuyền công nghệ luyện kim và các hạng mục phụ trợ công suất 500.000 tấn phôi thép/năm tại khu vực Lưu Xá, với giá trọn gói cố định là hơn 160 triệu USD (tương đương 2.596 tỷ đồng).
Quá trình triển khai thực hiện hợp đồng này, MCC tự ý dừng hợp đồng, rút hết người về nước.
Thời gian thực hiện hợp đồng là 30 tháng, nhưng sau hơn 11 tháng khởi công xây dựng, MCC chưa hoàn thành thiết kế chi tiết các hạng mục, chưa ký được hợp đồng với nhà thầu phụ, chưa triển khai thi công bất kỳ hạng mục nào của gói thầu.
Thậm chí, chưa ký đặt hàng chế tạo máy móc thiết bị, nhưng lại có các văn bản đề nghị kéo dài thời gian và tăng giá Hợp đồng EPC thêm hơn 138 triệu USD không có cơ sở.
Với chức trách, nhiệm vụ được giao, các bị can Trần Trọng Mừng, Mai Văn Tinh (cựu Chủ tịch HĐQT VNS), Đậu Văn Hùng (TGĐ VNS) và các bị can khác có liên quan đã không chỉ đạo, áp dụng điều khoản Hợp đồng EPC số 01 để dừng hợp đồng EPC, báo cáo người có thẩm quyền xem xét để hủy đấu thầu, thu hồi tiền tạm ứng.
Thay vào đó, các bị can quyết tâm bằng mọi biện pháp phải tiếp tục thực hiện dự án.
Theo kết luận điều tra, dù các bị can nhận thức rõ, quy định của hợp đồng EPC và các quy định khác thì hợp đồng này không được phép điều chỉnh trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng.
Hợp đồng này và các quy định pháp luật về đầu tư xây dựng quy định, MCC phải chịu trách nhiệm lựa chọn, ký hợp đồng, trực tiếp thanh toán cho nhà thầu phụ thực hiện phần C của hợp đồng.
Dù vậy, các bị can là những người có thẩm quyền trong việc đầu tư và tổ chức thực hiện dự án đã chỉ đạo, tổ chức đàm phán với MCC tách phần C ra khỏi hợp đồng để TISCO tổ chức thực hiện và chịu mọi rủi ro…
MCC chấp thuận và ký hợp đồng thầu phụ giao cho VINAINCON và các nhà thầu phụ thực hiện phần C của hợp đồng EPC số 01 dưới hình thức hợp đồng theo đơn giá. TISCO trực tiếp thanh toán cho nhà thầu phụ dựa trên số lượng và khối lượng các hạng mục đã thi công thực tế.
Việc làm trên đã làm thay đổi bản chất, phá vỡ nguyên tắc quản lý hợp đồng EPC, tạo điều kiện cho MCC có lý do chối bỏ trách nhiệm thực hiện hợp đồng EPC số 01.
Đây là nguyên nhân chính dẫn đến TISCO không kiểm soát được chi phí đầu tư vào dự án; không ràng buộc trách nhiệm của nhà thầu phụ về tiến độ, giá trị hợp đồng, làm dự án phải dừng thi công gây thất thoát, lãng phí tài sản Nhà nước.
Cơ quan điều tra xác định, dự án đã quá thời hạn được phê duyệt gần 10 năm và số tiền hơn 830 tỉ đồng mà TISCO đã trả các ngân hàng từ khi dự án chậm tiến độ, dừng thi công đến thời điểm vụ án bị khởi tố là hậu quả thiệt hại của vụ án.
T.Nhung/VNN