Trong bài viết được đăng tải trên Vietnam Briefing, Pritesh Samuel, Trưởng phòng Kinh doanh thông minh của Dezan Shira & Associates (DSA) nhận định Việt Nam sẽ trên đà phát triển đầy hứa hẹn bất chấp bóng đen của đại dịch COVID-19 trong vài năm qua cũng như những bất ổn khác bao phủ thị trường thế giới.
Ông Pritesh Sumuel mở đầu bài viết bằng phát biểu của Thủ tướng Phạm Minh Chính tại Quốc hội vào tháng trước, tái khẳng định rằng nền kinh tế Việt Nam sẽ vượt kỳ vọng trong năm nay với mức tăng GDP là 8%. Theo ông Pritesh Samuel, đây là một tuyên bố táo bạo do GDP của Việt Nam bị ảnh hưởng đáng kể do các đợt phong tỏa do đại dịch gây ra vào năm ngoái.
Tuy nhiên, không có gì ngạc nhiên khi Việt Nam là một trong số ít quốc gia ghi nhận mức tăng trưởng kinh tế khả quan trong thời kỳ đại dịch, tăng trưởng 2,6% vào năm 2021.
Vậy điều gì đang giữ cho nền kinh tế Việt Nam phát triển ổn định và đạt được những con số tăng trưởng tích cực? Theo Vietnam Briefing, có ba yếu tố sau đây chính là tiền đề giúp kinh tế Việt Nam phát triển vượt trội hơn so với các nước:
Việt Nam chi khoảng 6% GDP cho cơ sở hạ tầng. Đây là một trong những mức cao nhất trong khu vực ASEAN.
Trong số chi tiêu đó có một số hạng mục lớn: đường cao tốc TP.HCM – Hà Nội dài 1.800 km đầy tham vọng; sân bay quốc tế Long Thành, cuối cùng sẽ thay thế sân bay Tân Sơn Nhất quá tắc nghẽn của TP.HCM; các dự án tàu điện ngầm ở Hà Nội và TP.HCM, cũng như các nhà máy nhiệt điện và rác thải thành năng lượng.
Nhưng bất chấp những dấu hiệu tích cực này, cơ sở hạ tầng của Việt Nam vẫn còn thiếu sót. Cụ thể, nhiều nhà máy vẫn phụ thuộc vào lao động hơn là sử dụng công nghệ để tự động hóa các quy trình. Tuy nhiên, Chính phủ cam kết thay đổi điều này và đã công bố các ưu đãi cho các ngành công nghệ cao.
Trong những năm qua, Việt Nam đã tích cực ký kết các hiệp định thương mại song phương với các nước trên thế giới. Với tư cách là một thành viên trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Việt Nam trở thành một bên tham gia một số FTA mà khối khu vực đã ký kết.
Tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm, quy trình sản xuất và quyền của người lao động được đảm bảo trong các hiệp định này sẽ cho phép Việt Nam trở thành trung tâm sản xuất và mở rộng cơ sở xuất khẩu. Chẳng hạn, hiệp định thương mại tự do EU-Việt Nam (EVFTA) đã thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam bất chấp đại dịch.
Năm 2021, hiệp định thương mại tự do giữa Anh và Việt Nam (UKVFTA) đã giúp thúc đẩy thương mại giữa Việt Nam và Anh đạt gần 6,6 tỷ USD.
Mức tăng tương tự cũng được ghi nhận với Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) với xuất khẩu sang Canada và Mexico.
Thêm vào đó, môi trường kinh doanh của Việt Nam vô cùng cởi mở, Chính phủ có nhiều chính sách thân thiện với nhà đầu tư nhằm thu hút đầu tư và phát triển kinh tế xã hội. Đây là những yếu tố kéo quan trọng đối với các nhà đầu tư muốn đầu tư vào Việt Nam. Điều này đã trở nên dễ dàng hơn thông qua số lượng các FTA ngày càng tăng của Việt Nam.
Một trong những lợi thế lớn nhất của Việt Nam là mức lương cạnh tranh. Trung Quốc được biết đến là quốc gia thống trị ngành sản xuất nhưng với việc tăng lương, nhiều doanh nghiệp đã chuyển hoạt động sang duy trì lợi nhuận trong lĩnh vực sản xuất chi phí thấp.
Trong khi Việt Nam vẫn cần phát triển lực lượng lao động lành nghề, Việt Nam có một lực lượng lao động trẻ, năng động sẵn sàng lấp đầy khoảng trống. Lực lượng lao động trẻ của nó cũng có chi phí tương đối thấp hơn. Hơn 40% sinh viên Việt Nam tốt nghiệp đại học chuyên ngành khoa học và kỹ thuật và Việt Nam nằm trong top 10 quốc gia có nhiều sinh viên tốt nghiệp kỹ thuật nhất.
Khi Việt Nam chứng kiến nền kinh tế của mình phát triển, tiền lương của họ sẽ tăng lên. Do đó, nó sẽ phải duy trì sự cân bằng giữa lạm phát, mức lương và năng suất để tránh làm gián đoạn thị trường lao động nói chung. Chi phí lao động thấp cuối cùng sẽ không bền vững trong dài hạn và trọng tâm sẽ phải là phát triển ngành dịch vụ, công nghiệp công nghệ cao và tiêu dùng nội địa của Việt Nam.
Tuy nhiên, cũng có những dấu hiệu cho thấy sẽ có những thách thức lớn hơn. Gần đây, tình trạng thiếu nhiên liệu đã được báo cáo ở TP.HCM và các tỉnh lân cận phía Nam. Điều này cuối cùng đã lan rộng đến thủ đô Hà Nội. Tình hình chỉ được cải thiện khi chính phủ tăng giá xăng dầu, tuy tình hình có khả quan hơn nhưng vẫn chưa phục hồi hoàn toàn.
Ngoài ra, nền kinh tế Việt Nam đang phải đối mặt với những cơn gió ngược do nhu cầu chậm lại, lạm phát gia tăng và hoàn cảnh địa chính trị.
Chỉ số Nhà quản trị mua hàng của S&P Global cho Việt Nam, đo lường hoạt động sản xuất, đã giảm xuống 50,6 trong tháng 10 từ mức 52,5 của tháng 9, mức thấp nhất kể từ tháng 10 năm 2021. Chỉ số từ 50 trở lên cho thấy hoạt động sản xuất đang mở rộng.
Tuy nhiên, trong khi đồng Việt Nam đã mất giá 9,1% so với đô la Mỹ kể từ đầu năm, mức giảm giá của nó thấp hơn so với các nước khác.
Hơn nữa, ngân hàng trung ương dự kiến sẽ tăng lãi suất để giải quyết lạm phát. Điều này ít nhiều sẽ làm trầm trọng thêm tình trạng lạm phát, và ảnh hưởng đến nền kinh tế vốn đã chịu nhiều tổn thương sau đại dịch.
Bất chấp những thách thức, tăng trưởng dài hạn của Việt Nam vẫn ổn định và có đủ yếu tố thúc đẩy để khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất di dời.
Số liệu FDI của Việt Nam có vẻ khả quan – nước này đã nhận được 17,5 tỷ USD trong 10 tháng đầu năm, tăng 15% so với cùng kỳ năm ngoái.
Theo Phòng Thương mại Châu Âu, FDI vào cũng đang thúc đẩy tăng trưởng kinh tế do môi trường thương mại và lao động của Việt Nam. Điều này xảy ra mặc dù các nhà máy không hoạt động do nhu cầu giảm ở các thị trường phương Tây, từ dệt may, giày dép đến đồ nội thất.
Tuy nhiên, ngay cả khi căng thẳng địa chính trị vẫn còn, triển vọng kinh tế của Việt Nam vẫn đầy hứa hẹn. Các nhà đầu tư quan tâm đến thị trường được khuyên nên thực hiện thẩm định để đảm bảo họ sẵn sàng đối mặt với những thách thức. Trong ngắn hạn, chi phí có thể tăng lên, nhưng các nhà đầu tư tham gia cuộc chơi dài hạn sẽ gặt hái được những phần thưởng lớn, theo Vietnam Briefing.
Thực hiện: Tuệ Ngô
Đồ họa: Hồng Hạnh