Việt Nam sẽ ra sao khi suy thoái toàn cầu diễn ra?
Mới đây, hãng tin The Tribune của Ấn Độ đã đưa ra nhận định rằng nền kinh tế toàn cầu dường như sắp đi đến giai đoạn suy thoái khi tình trạng thắt chặt tiền tệ quá mức hoặc dưới mức cho phép.
Theo đó, nền kinh tế toàn cầu dường như đang tiến tới một cuộc suy thoái nghiêm trọng và song song với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 và sự suy thoái do đại dịch Covid-19 gây ra vào năm 2020.
Rất nhiều hy vọng rằng bất kỳ thất bại nghiêm trọng nào có thể được ngăn chặn đều phụ thuộc vào mức độ điều chỉnh chính sách cao và có thể khó thực hiện. Trên thực tế, phần lớn các cược lúc này đang giảm tốc nghiêm trọng mà không có bất kỳ dấu hiệu rõ ràng nào về việc làm thế nào đòn của nó có thể được làm dịu đi.
Có lẽ, điều đáng mừng duy nhất đối với một quốc gia Việt Nam nói riêng và các nước đang phát triển nói chung là sự suy thoái đối với các nước này sẽ không nghiêm trọng như đối với các nước phát triển, theo The Tribune.
Trong Báo cáo điểm lại tháng 8/2022, Ngân hàng Thế giới nhận định nền kinh tế Việt Nam đang hồi phục sau hai năm tổn thương, nhưng phải đối mặt với những thách thức trong nước cũng như môi trường kinh tế toàn cầu bất lợi trong ngắn hạn và trung hạn. WB dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt 7,2% trong năm 2022 và 6,7% trong năm 2023.
Ngược lại, tăng trưởng kinh tế Mỹ có thể sẽ giảm mạnh trong năm nay xuống 1,6% so với 5,7% năm ngoái và dự kiến sẽ tiếp tục giảm xuống chỉ 1% trong năm tới. Hoàn toàn có thể, điều tồi tệ nhất là khu vực đồng Euro và đặc biệt là Đức, quốc gia được dự báo sẽ tăng trưởng âm, tức là nền kinh tế của nước này sẽ giảm 0,3% trong năm tới so với mức 1,5% của năm hiện tại, mức giảm so với năm ngoái là 2,6%.
Tất cả những điều này sẽ góp phần làm cho nền kinh tế toàn cầu chỉ tăng trưởng 3,2% trong năm nay, giảm so với 6% của năm ngoái và sẽ đạt mức 2,7% nhỏ trong năm tới. Do đó, nhận xét của một nhóm các nhà bình luận rằng câu hỏi không phải là liệu một cuộc suy thoái có đến hay không mà là khi nào nó sẽ đến.
Một số yếu tố đã góp phần tạo nên viễn cảnh u ám này. Nguyên nhân quan trọng lúc này là do Cục Dự trữ Liên bang Mỹ thắt chặt tiền tệ nghiêm trọng kể từ tháng 3 để giảm mức lạm phát, hiện ở mức 8,2%. Khi Fed tăng lãi suất, khiến đồng đô la mạnh hơn so với hai thập kỷ qua, tiền toàn cầu đã đổ về Mỹ để đầu tư vào chứng khoán của chính phủ. Đầu tư như vậy hiện kết hợp cả lợi nhuận cao và sự an toàn của nền kinh tế Mỹ.
Trong khi Fed đang theo đuổi chiến lược này, phần còn lại của các ngân hàng trung ương khác trên thế giới cũng đã phải tăng lãi suất để ngăn chặn dòng chảy của đồng đô la và sự sụt giảm tỷ giá hối đoái của họ so với đồng đô la. Điều này đồng nghĩa với việc tốn kém tiền bạc hơn và chi phí nhập khẩu thiết yếu cao trên toàn thế giới.
Điều khiến mọi thứ trở nên tồi tệ hơn là việc thắt chặt tiền tệ toàn cầu này diễn ra trong bối cảnh cuộc chiến Ukraine bùng nổ hồi đầu năm. Điều này thậm chí còn xảy ra khi đại dịch đang rút đi, làm dấy lên hy vọng phục hồi toàn cầu. Như thể điều này là chưa đủ, Trung Quốc, một động lực tăng trưởng hàng đầu thế giới và là nhà cung cấp chất bán dẫn, đang thực hiện các biện pháp khóa do chính sách của riêng mình để ngăn chặn sự lây nhiễm Covid và do đó, đặt mục tiêu giảm tốc độ tăng trưởng trong năm hiện tại xuống 3,2% từ mức cao 8,1% của năm ngoái.
Từ nhận định cho thấy tương lai trước mắt của nền kinh tế thế giới nằm ở khả năng của các cơ quan chức năng trong việc điều chỉnh chính sách tiền tệ một cách chính xác để không xảy ra tình trạng thắt chặt tiền tệ quá mức hoặc thắt chặt dưới mức. Điều này sẽ dẫn đến suy thoái kéo dài và khủng hoảng nợ và thanh toán ở các nền kinh tế đang phát triển, như đã bắt đầu xảy ra ở Sri Lanka và Pakistan. Điều này sẽ dẫn đến việc không thể kiểm soát lạm phát.
Điều này phải đi kèm với việc cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ hơn ở mức thấp hơn lãi suất thị trường cao hiện hành (do thắt chặt tiền tệ) để họ có thể tiếp tục kinh doanh. Những doanh nghiệp như vậy đóng cửa vì tiền trở nên quá đắt sẽ dẫn đến tình trạng khó khăn giống như đã từng xảy ra trong giai đoạn đầu của quá trình đóng cửa.
Đối với Việt Nam, lạm phát bình quân dự báo 3,8% trong năm 2022, khi nhu cầu trong nước tiếp tục được củng cố. Trong trung hạn, nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt với những rủi ro lớn, gây ảnh hưởng đến tăng trưởng. Sự xuất hiện của các biến chủng Covid-19 cùng với hoạt động kinh tế gián đoạn vẫn là rủi ro chính.
Áp lực lạm phát dai dẳng và triển vọng thắt chặt tiền tệ mạnh hơn, nhất là tại Hoa Kỳ và các nền kinh tế phát triển, có thể dẫn đến biến động trên các thị trường tài chính toàn cầu, làm suy giảm tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hơn nữa, nhất là vào thời điểm các hoạt động kinh tế đang chững lại.
Còn đối với phần còn lại của thế giới, các nhà chức trách chỉ có thể hy vọng rằng cuộc chiến Ukraine sẽ không diễn ra quá lâu và một biến thể Covid mới sẽ không tàn phá một lần nữa.
Tuệ Ngô (Theo The Tribune)