Việt Nam đưa ra các gói hỗ trợ chưa từng có tiền lệ
Việc cầm cự, duy trì, hồi phuc sản xuất kinh doanh phụ thuộc lớn vào nỗ lực bản thân của các doanh nghiệp. Doanh nghiệp nên nghiên cứu, hiểu kỹ các gói hỗ trợ của CP để chủ động tiếp cận và thụ hưởng.
LTS: Chính phủ và các bộ, ngành đang xem xét nhiều giải pháp đồng bộ để hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp bị tác động lớn của đại dịch Covid-19. Tuần Việt Nam xin giới thiệu ý kiến của Tiến sỹ Võ Trí Thành.
Trong gói hỗ trợ an sinh xã hội 62 nghìn tỷ đồng với diện bao phủ khoảng 20 triệu người, người sử dụng lao động cũng được vay từ Ngân hàng Chính sách Xã hội không cần thể chấp, lãi suất bằng 0% để chi trả cho người lao động ngừng việc, theo Nghị quyết 42. Thực hiện gói này khó nhất là xác định đối tượng lao động tự do.
Tại Nghị quyết 41, Chính phủ đã yêu cầu cân đối thêm 1.000 tỷ đồng cho Ngân hàng Chính sách Xã hội theo Nghị quyết 71/2018/QH14 và bổ sung 2.000 tỷ đồng để cấp bù lãi suất cho 4 NHTM do NHNN Việt Nam chỉ định để thực hiện hỗ trợ cho vay nhà ở xã hội. Đây là cơ hội và là chất kích thích doanh nghiệp tích cực tham gia xây dựng nhà ở xã hội.
Về giải pháp tiền tệ, doanh nghiệp cần lưu ý, gói này gồm 2 nhóm chính sách: Nhóm thứ nhất là điều hành của NHNN. Cùng với việc đảm bảo ổn định vĩ mô, NHNN đã tiếp tục hạ nhiều lãi suất điều hành để dần tạo mặt bằng lãi suất cho vay thấp hơn đối với cả nền kinh tế. NHNN cũng chỉ đạo NHTM giãn, hoãn, khoanh nợ, giảm lãi suất đối với các khoản đã vay. Giải pháp này cực kỳ có ý nghĩa đối với doanh nghiệp. Có đến 2 triệu tỷ đồng tín dụng chịu ảnh hưởng tiêu cực từ đại dịch Covid-19. Nhóm thứ hai là gói tín dụng khoảng 300.000 tỷ đồng do các NHTM thực hiện với lãi suất ưu đãi cùng với việc giảm nhiều loại phí dịch vụ.
NHNN cũng đã yêu cầu NHTM giảm tối đa chi phí, giảm lợi nhuận (tới 40%) để tạo nguồn lực, giảm lãi suất và cân đối nguồn vốn đầu tư cho những dự án khả thi. Bên cạnh chính sách giãn hoãn khoanh nợ, cho vay mới hỗ trợ doanh nghiệp, nhất là giai đoạn “chuyển tiếp” và hậu dịch là một yếu tố then chốt giúp nền kinh tế tăng trưởng trở lại.
Gói giải pháp giãn hoãn nộp thuế, tiền thuê đất với diện hỗ trợ chiếm tới 98% số doanh nghiệp đang được thực hiện. với giá trị lên tới 180.000 tỷ đồng. Đến cuối tháng Tư đã có gần 60.000 giấy đề nghị gia hạn nộp thuế gửi tới cơ quan thuế. Theo Bộ Tài chính, chỉ cần người nộp thuế gửi giấy đề nghị gia hạn nộp thuế đến cơ quan thuế là được gia hạn, không cần phải có thông báo từ cơ quan thuế.
Đó là chưa nói, việc đẩy mạnh đầu tư công năm 2020 so với các năm trước cũng là một “đầu kéo” cho tăng trưởng và sự tham gia của nhiều doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Việt Nam đã đưa ra các gói hỗ trợ chưa từng có tiền lệ. Cả việc khống chế dịch đi đôi với nới lỏng “giãn cách xã hội” và ngay “sự sống còn” (cầm cự, duy trì) của doanh nghiệp chính là những điều kiện quan trọng để sản xuất kinh doanh có thể đứng dậy. Chính phủ cũng tính đến các nguồn lực cho giai đoạn phục hồi và tiếp theo.
Nhiều nước đã đưa ra các gói cứu trợ, gói kích thích khổng lồ nhưng dư địa chính sách còn ít. Rủi ro tài chính lớn, nợ công tăng vọt cao, dư địa chính sách tiền tệ gần như đã hết. Lưu ý là quả bom nợ nần thế giới đã lớn chưa từng có ngay vào năm 2019. Với Việt Nam, cả dư địa chính sách và nguồn lực ít nhiều vẫn còn.
Đơn cử như gói hỗ trợ an sinh xã hội 62 nghìn tỷ đồng cơ bản là sử dụng nguồn tăng thu của ngân sách trung ương, ngân sách địa phương năm 2019, nguồn dự trữ ngân sách và khoản tiết kiệm chi thường xuyên năm nay. Hay về thuế và tiền thuê đất mới là chính sách hoãn, gia hạn nộp. Nguồn dự trữ ngoại hối từ đầu năm vẫn tăng, đạt tren 80 tỷ USD. Đầu tư công năm 2020 chỉ là vấn đề đẩy nhanh giải ngân một cách hiệu quả nguồn vốn chưa “tiêu” năm 2019 (do triển khai rất chậm) cùng vốn kế hoạch năm 2020, tổng cộng tới gần 700 nghìn tỷ đồng.
Chúng ta sẽ thực hiện gói hàng chục nghìn tỷ đồng miễn, giảm thuế, phí, và có thể cả tiền đóng bảo hiểm xã hội (Dự thảo Nghị quyết 43 trình Quốc hội). Quy mô gói tín dụng ưu đâĩ của các NHTM có thể tăng lên. Những giải pháp kích thích kinh tế liên quan đến phát triển nguồn nhân lực, hạ tầng và một số lĩnh vực quan trọng khác cũng được tính đến cùng đà hồi phục và tăng trưởng kinh tế trở lại.
Có thể chúng ta phải chấp nhận thâm hụt ngân sách cao hơn, phải điều chỉnh mức nợ công (lưu ý là những năm qua đã giảm từ gần mức trần 65% GDP xuông còn trên dưới 57% GDP năm 2019). Nhưng dù thế nào, vẫn phải đảm bảo ổn định vĩ mô cùng khả năng chống chịu của nền kinh tế. Cách thức hỗ trợ, nhất là trong giai đoạn phục hồi và tăng trưởng trở lại, phải song hành với cải cách thể chế, cải cách cơ cấu cùng “bám theo” những xu thế phát triển mới.
Các doanh nghiệp và các hiệp hội doanh nghiệp phản ánh rằng các gói hỗ trợ được thực hiện chậm hơn mong đợi, chưa được như kỳ vọng, nhưng Chính phủ và nhiều bộ ngành đã rất nỗ lực, quyết liệt và kịp thời. Ngay từ tháng 2, Chính phủ cụ thể là Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã sớm đánh giá tình hình dịch Covid-19, dự báo các tác động kinh tế xã hội của dịch với các kịch bản khác nhau, từ đó sớm chuẩn bị các giải pháp để hỗ trợ sản xuất, kinh doanh, người lao động và người dân. Cùng sự vào cuộc của các bộ ngành, hiệp đội và daonh nghiệp, Chỉ thị 11 và các Nghị quyết 41/NQ-CP, Nghị quyết 42/NQ-CP về các biện pháp hỗ trợ sản xuất kinh doanh, hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19 đã được ban hành.
Tư tưởng chính sách của Chính phủ được đưa ra theo 3 nguyên tắc. Nguyên tắc thứ nhất là ưu tiên chống dịch và giảm thiểu tác động kinh tế của dịch. Nguyên tắc này đến nay đã ít nhiều thay đổi, cùng với nỗ lực chống dịch, khống chế dịch, thì cần học cách sống chung an toàn với dịch, với nguy cơ dịch. Theo đó, VN đã giảm giãn cách xã hội, các hoạt động sản xuất kinh doanh dần quay trở lại.
Nguyên tắc thứ hai là, do diễn biến dich bệnh nhanh, khó lường nên phải bám sát tình hình để kịp thời có các kịch bản và chính sách thích ứng. Chính phủ và các bộ ngành luôn theo sát, lắng nghe cộng đồng doanh nghiệp và liên tục có các chỉ đạo kịp thời.
Nguyên tắc thứ ba là trong điều kiện nguồn lực có hạn thì chọn cách làm để đạt các mục tiêu khống chế dịch Covid-19 cũng như hỗ trợ doanh kinh tế kịp thời, thiết thực và vẫn đảm bảo ổn định vĩ mô.
Cách hiện nay là hỗ trợ để doanh nghiệp cầm cự, duy trì và tạo tiền đề để doanh nghiệp có thể bứt dần lên khi dịch được khống chế ở Việt Nam và tốt hơn nữa là ở phạm vi toàn cầu. Đó là cả một quá trình còn nhiều khó khăn, thách thức.
Chính sách của Chính phủ tính dài cho cả quá trình đó. Việt Nam cho đến nay được xem là nước khống chế dịch thành công với chi phí tương đối thấp. Một số giải pháp của CP là chưa từng có trong tiền lệ, như gói 62 nghìn tỷ đồng hỗ trợ những người gặp khó khăn; gói giãn nộp thuế và tiền thuê đất bao phủ tới 98% số doanh nghiệp.
Tuy vậy, chúng ta vẫn ít nhiều có nguồn lực và dư địa chính sách để ứng phó theo cả kịch bản nếu dịch xấu hơn và kịch bản phát triển kinh tế thời kỳ “chuyển tiếp” khi dịch dần được khống chế và hậu dịch.
Lan Anh/VNN