+
Aa
-
like
comment

“Việt Nam đang dẫn lối cho ASEAN trên con đường xuất khẩu”

Đông Duy - 09/10/2023 18:55

Vừa qua, nhà kinh tế học Honguan Zhao và nhà nghiên cứu Yin Fai Ho thuộc Văn phòng Nghiên cứu Kinh tế Toàn cầu ASEAN+3 (Singapore) đã đưa ra nhận định Việt Nam đang trở thành ngọn cờ đầu dẫn đường cho kim ngạch xuất khẩu của khu vực ASEAN.

"Việt Nam đang dẫn lối cho ASEAN trên con đường xuất khẩu".
“Việt Nam đang dẫn lối cho ASEAN trên con đường xuất khẩu”.

Sau cuộc xung đột thương mại Mỹ-Trung và đại dịch COVID-19, có một sự thay đổi đáng kể trong lời nói về độc lập và an ninh chuỗi cung ứng.

Sự thúc đẩy mạnh mẽ để “đưa sản xuất ngoài biển” từ Trung Quốc trở lại vị trí nội địa hoặc di chuyển đến các quốc gia láng giềng có quan điểm chính trị gần đây như “friend-shoring” đã đặt ra thách thức đối với vị thế của Trung Quốc là quốc gia xuất khẩu hàng đầu trên thế giới.

Sự phát triển của Trung Quốc trong thương mại toàn cầu đã bắt đầu chậm lại sau năm 2015 với tỷ lệ xuất khẩu ra thế giới của nước này giảm dần trong 3 năm tiếp theo trong bối cảnh suy giảm chung. Tuy nhiên, tỷ lệ xuất khẩu của Trung Quốc đã tăng đột ngột vào năm 2020 khi chuỗi cung ứng kiên cường của nước này tồn tại tốt hơn so với các quốc gia khác trong đại dịch COVID-19.

Xu hướng giảm tỷ lệ xuất khẩu ra thế giới của Trung Quốc đã tiếp tục vào năm ngoái, chủ yếu tập trung vào các ngành lao động tập trung vào lao động, chiếm khoảng 26% tổng số xuất khẩu của nước này.

Dẫn đầu trong việc suy giảm là các ngành dệt may và giày dép của Trung Quốc. Tỷ lệ thị phần thế giới của các ngành này giảm từ 39,3% vào năm 2015 còn 29% vào năm 2022. Các quốc gia thuộc EU và cả ASEAN đang dần chiếm thị phần từ Trung Quốc trong những ngành này.

Ở cấp độ quốc gia, Việt Nam dường như đã hưởng lợi nhiều nhất về mặt tuyệt đối từ việc sắp xếp lại thị trường xuất khẩu thế giới, đặc biệt là so với quy mô xuất khẩu tương đối nhỏ và kích thước kinh tế của nước này.

Khác với ngành dệt may và giày dép, hầu hết các ngành công nghiệp của Trung Quốc vẫn đang tiến bộ trong việc giành thị phần thị trường toàn cầu, đặc biệt là trong các ngành công nghiệp có kỹ năng cao và công nghệ cao. Trong số đó, thị phần máy móc và sản phẩm điện tử của Trung Quốc đã tăng từ 17,9% trong năm 2015 lên 28,5% vào năm ngoái.

Tương ứng, nhiều quốc gia thuộc EU và ASEAN đang mất thị phần trong các ngành trên. Tuy nhiên, Việt Nam lại  là ngoại lệ đáng chú ý, trải qua sự gia tăng nhỏ cùng với Trung Quốc. Và mặc dù họ cũng bị mất thị phần, xuất khẩu của EU và ASEAN trong những lĩnh vực này vẫn tiếp tục tăng mạnh nhờ vào sự mở rộng tổng thể của thị trường thế giới.

Sự mất mát thị phần thị trường toàn cầu của Trung Quốc trong các ngành lao động tập trung vào lao động phản ánh sự tiến hóa kinh tế tự nhiên. Sự chuyển đổi sang các ngành có giá trị gia tăng cao và công nghệ cao điều này phù hợp với chiến lược phát triển và hướng dẫn chính sách của đất nước này, như thể hiện trong các chính sách thúc đẩy nâng cấp và chuyển giao công nghiệp.

Do đó, Trung Quốc đã tích luỹ vốn, lao động có kỹ năng và công nghệ để cho phép sự chuyển đổi của nó vào các ngành công nghiệp tiên tiến. Sự biến đổi này không chỉ có tác động tích cực đối với sự phát triển kinh tế nội địa của đất nước mà còn có tác động lan tràn đối với các quốc gia trong khu vực khác.

Trong số các thành viên của ASEAN, cho đến nay, Việt Nam đã là nước hưởng lợi chính. Ngoài việc chiếm được một phần đáng kể của thị phần thị trường mà Trung Quốc đang mất từ sự suy giảm của các ngành xuất khẩu, Việt Nam cũng đã điều chỉnh chính mình để phù hợp với các ngành nổi bật của Trung Quốc.

Phân tích lợi thế so sánh tiết lộ bởi Văn phòng Nghiên cứu Kinh tế Toàn cầu ASEAN+3 cho thấy nền kinh tế của Việt Nam và Trung Quốc có sự tương đồng về cấu trúc sản xuất. Do đó, Việt Nam có tiềm năng để tiếp tục thay thế các ngành xuất khẩu của Trung Quốc đối mặt với việc tăng thuế và các rào cản thương mại khác.

Tuy nhiên, Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn đầu trong việc tích luỹ khả năng và tài nguyên cần thiết để hỗ trợ và bổ sung cho sự tiến bộ của Trung Quốc trong các ngành công nghiệp công nghệ cao và sáng tạo. Một điều đáng khích lệ là đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam đang tăng lên và chuyển dịch vào các ngành tiên tiến như điện tử, bán dẫn và pin.

Tuy nhiên, khi Việt Nam tiếp tục tích hợp sản xuất với Trung Quốc, ngành xuất khẩu ngày càng phát triển của nước này sẽ trở nên dễ bị tác động bởi những xáo trộn tiềm năng. Hà Nội nên tăng cường sự khả năng chịu đựng của chuỗi cung ứng của mình để bảo vệ khỏi những sự cố tiềm năng.

Ngoài Việt Nam, các nền kinh tế ASEAN khác đã chiếm được phần thị phần thị trường nhỏ hơn trong các ngành suy giảm của Trung Quốc so với các nền kinh tế của EU, mặc dù có vẻ như có lợi thế so sánh phù hợp. Kết quả này khiến cho dự đoán rằng ASEAN sẽ hưởng lợi đáng kể từ sự mất mát xuất khẩu của Trung Quốc do căng thẳng địa chính trị và sự cấu hình lại chuỗi cung ứng trở nên khó hiểu.

Xuất khẩu của ASEAN đang tăng trong các ngành mở rộng của Trung Quốc, nhưng sự tăng thị phần thị trường đã bị hạn chế. Xem xét các mối quan hệ kinh tế sâu rộng với Trung Quốc, ASEAN nên có tiềm năng đáng kể để hưởng lợi từ những biến đổi như vậy trong cảnh quan thương mại toàn cầu.

Để hiểu rõ hơn tiềm năng của khu vực này, các chính phủ ASEAN nên xem xét việc thực hiện các chính sách hỗ trợ để phát triển các ngành công nghiệp mới để thúc đẩy sự tăng trưởng xuất khẩu trong tương lai và đào tạo công nhân trong các kỹ năng phù hợp với sự tiến hóa công nghiệp của Trung Quốc. Đồng thời, việc đa dạng hóa thị trường xuất khẩu sẽ tạo ra sự đa dạng trong chuỗi cung ứng và tăng cường khả năng chịu đựng của họ.

Các chính sách như khuyến khích nghiên cứu và phát triển, hỗ trợ các công ty khởi nghiệp trong các ngành công nghệ cao và cung cấp đào tạo nghề nghiệp sẽ thúc đẩy sự xuất hiện và phát triển của các ngành công nghiệp mới trong nền kinh tế của các nước ASEAN. Điều này, lần lượt, sẽ thuận tiện cho việc tích hợp vào chuỗi cung ứng đang phát triển, đặc biệt là khi Trung Quốc trải qua quá trình nâng cấp công nghiệp của mình.

Cuối cùng, các nền kinh tế ASEAN sẽ cần đạt được sự cân bằng giữa sự phụ thuộc vào thương mại xoay quanh Trung Quốc và mở rộng mạng lưới đối tác thương mại của họ. Bằng cách đa dạng hóa thị trường xuất khẩu và nguồn cung cấp nhập khẩu, họ cũng có thể tăng cường khả năng chịu đựng của chuỗi cung ứng của mình.

Đông Duy

Bài mới
Đọc nhiều