Việt Nam có tiềm năng phát triển ‘mỏ ánh sáng’ ngoài khơi
Việt Nam với hơn 3.000 km bờ biển nằm trong vùng gió mùa châu Á mạnh và ổn định, năng lượng sóng phong phú, một số khu vực biển có lượng gió lớn nhất ở Đông Nam Á, Việt Nam được quốc tế đánh giá là một trong những nước có tiềm năng lớn về phát triển điện gió, sóng lớn nhất khu vực và là thị trường triển vọng nhất về điện sạch ngoài khơi.
Lợi thế lớn về tiềm năng gió, sóng
Đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết theo báo cáo nghiên cứu “tiềm năng về năng lượng gió, sóng ngoài khơi tại các vùng biển Việt Nam” do Tổng cục Khí tượng Thủy văn và các đơn vị trực thuộc bộ này thực hiện, Việt Nam là nước nằm trong vùng gió mùa châu Á mạnh và ổn định nên tiềm năng về năng lượng gió được đánh giá rất dồi dào.
Thậm chí, theo kết quả khảo sát từ Chương trình đánh giá về năng lượng cho châu Á của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam là đất nước có tiềm năng gió thuộc diện lớn nhất trong khu vực Đông Nam Á, với tổng tiềm năng điện gió ước đạt 513.360MW.
Công suất tiềm năng từ điện gió kể trên lớn gấp 200 lần công suất của Nhà máy thuỷ điện Sơn La và hơn 10 lần tổng công suất dự báo của ngành điện Việt Nam năm 2020.
Về phân bố gió và tiềm năng nguồn năng lượng này ở độ cao 100m tại các vùng ven biển Việt Nam, đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết các vùng biển có khả năng khai thác tiềm năng năng lượng gió tốt nhất là từ Bình Định đến Ninh Thuận; Bình Thuận đến Cà Mau; và một phần vùng biển trung tâm vịnh Bắc Bộ.
Cụ thể, tại vùng biển Bắc vịnh Bắc Bộ: Hướng gió chủ đạo là hướng Đông đến Đông Đông Bắc với tốc độ gió trung bình năm từ 6-8m/s, mật độ năng lượng gió khoảng 200-500W/m2; hướng gió chủ đạo vùng biển Nam vịnh Bắc Bộ là hướng Đông, tốc độ gió trung bình năm từ 6-8m/s, mật độ gió khoảng 200-500W/m2.
Tại vùng biển Quảng Trị đến Quảng Ngãi, hướng gió chủ đạo là hướng Đông với tốc độ gió trung bình năm từ 6-8m/s, mật độ gió phổ biến từ 200-400W/m2; hướng gió chủ đạo vùng biển Bình Định đến Ninh Thuận là hướng Bắc đến Đông Bắc với tốc độ gió trung bình từ 7-9m/s, mật độ gió phổ biến từ 300-600W/m2.
Đặc biệt, tiềm năng gió đạt ở mức tốt đến rất tốt, tập trung ở khu vực biển Ninh Thuận đến Bà Rịa-Vũng Tàu, với tốc độ gió trung bình năm từ 8 đến 10 m/s, mật độ năng lượng trung bình năm phổ biến từ 600 đến trên 700W/m2.
Cùng với năng lượng gió, do Biển Đông nằm trên khu vực có hai chế độ gió mùa luân phiên nên năng lượng sóng ngoài khơi của Việt Nam cũng được đánh giá là có lợi thế lớn và phong phú nhất so với các nước trong khu vực Đông Nam Á.
Kết quả tính toán năng lượng sóng trung bình nhiều năm cho thấy trong mùa Đông, gió mùa Đông Bắc tạo ra vùng năng lượng sóng khá mạnh trên vùng bắc và giữa Biển Đông, nhất là trong tháng 12 với tiềm năng năng lượng sóng lớn nhất tới 70kW/m.
Tại vùng bờ biển miền Trung Việt Nam (từ Đà Nẵng đến Ninh Thuận), năng lượng sóng lớn nhất khoảng 50-60kW, với tần suất xuất hiện ngưỡng “tiềm năng trung bình” tới trên 60% và ngưỡng “tiềm năng cao” tới 40%. Do vậy, mùa Đông được nhận định là khoảng thời gian khai thác năng lượng sóng thuận lợi nhất trong năm.
Cần dự báo các tác động của công trình ngoài khơi
Từ các phân tích nêu trên, lãnh đạo Bộ Tài nguyên và Môi trường khẳng định nhiều khu vực biển tại Việt Nam có tiềm năng năng lượng gió và sóng cao, chưa được khai thác. Đây là lợi thế rất lớn cho Việt Nam hướng tới sử dụng năng lượng tái tạo, thay thế nguồn năng lượng hiện có đang cạn kiệt, nhằm đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
Với ý nghĩa đó, trong thời gian tới, ngành dự báo khí tượng thủy văn sẽ hướng dần tới dự báo xác suất và dự báo tác động cụ thể. Theo đó, với việc phát triển các sản phẩm dự báo tác động cho các nhà máy điện nói chung và cho nhà máy khai thác năng lượng tái tạo nói riêng sẽ là hướng đi hết sức thiết thực, mang lại lợi ích phục vụ trực tiếp xã hội.
“Mặt khác, khi công nghệ mô hình số trị khí tượng, hải dương được phát triển, việc tái xây dựng các bản đồ tiềm năng về gió, sóng ở mức độ chi tiết cao hơn là hoàn toàn khả thi. Khi đó, chúng ta sẽ cho phép đánh giá được các khu vực có khả năng khai thác mới với các điều kiện phù hợp hơn,” đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường nói.
Tuy vậy, phía Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng lưu ý việc chi tiết hóa dự báo sóng và gió đòi hỏi cần phải có sự phát triển về năng lực tính toán và các dữ liệu quan trắc phù hợp để hiệu chỉnh có được các sản phẩm dự báo tin cậy; cũng như đáp ứng được nhu cầu của nhà máy khai thác năng lượng tái tạo và các cơ quan vận hành điều độ điện.
Trong khi đó, hệ thống quan trắc của ngành khí tượng thủy văn hiện nay thường mới chỉ tập trung vào chế độ gió sát bề mặt mực 10m và trên cao từ 2-3km trở lên. Do vậy, thời gian tới, những quan trắc gió ở các mực khai thác năng lượng gió cao hơn từ 50m trở lên cần có những bổ sung bao gồm các quan trắc mang tính chất chuyên đề cụ thể hơn.
Trên cơ sở đó, để phát triển năng lượng tái tạo ngoài khơi, phía Bộ Tài nguyên và Môi trường cho rằng trong thời gian tới ngành khí tượng và các cơ quan liên quan cần tổ chức điều tra, khảo sát, quan trắc bổ sung điều kiện tự nhiên các vùng biển.
Cùng với đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đề xuất lắp đặt thêm các trạm radar biển dọc bờ biển Việt Nam để đo các yếu tố sóng, dòng chảy trên toàn dải ven bờ; xây dựng bộ bản đồ tiềm năng gió và tiềm năng sóng; nghiên cứu, đánh giá, dự báo các tác động của các công trình điện gió, sóng ngoài khơi tới môi trường và các hoạt động kinh tế-xã hội…
Hùng Võ