Việt kiều ‘khóc cạn nước mắt’ vì nhờ người quen đứng tên mua nhà
Nhiều nhà đất liền kề nhau mà hai bên tranh chấp được mua của nhiều người. Tất cả chủ nhà, đất cũ đều cho rằng họ bán cho bà Liêng, còn ông Danh chỉ đứng tên giùm.
Suốt 12 năm ròng rã theo đuổi vụ kiện, tôi đã khóc cạn nước mắt, có những lúc tưởng chừng hết hi vọng. Tôi chỉ mong giữ lại được mảnh đất để an hưởng tuổi già, nhưng hành trình đi tìm công lý quả là quá gian nan.
Bà TRẦN THỊ LIÊNG
Ngược lại, ông Danh cho rằng mảnh đất trên do ông mua, ông chỉ cho bà Liêng ở nhờ.
Không ai chịu ai, hai bên kéo nhau ra tòa. Mới đây, TAND cấp cao tại TP.HCM đã xét xử vụ án tranh chấp quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở giữa nguyên đơn là bà Trần Thị Liêng (70 tuổi, Việt kiều Mỹ, Pháp) và bị đơn là vợ chồng ông Phan Danh – bà Nguyễn Thị Du (cùng ngụ tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu).
12 năm kiện đòi nhà
Theo đơn khởi kiện, bà Liêng là Việt kiều Pháp, Mỹ. Năm 1998, bà có ý định đưa gia đình hồi hương. Trong khoảng thời gian từ năm 1998 đến 2001, bà Liêng cùng người thân trong gia đình về VN nhiều lần, mỗi lần về mỗi người đều mang 5.000 – 6.000 USD để mua nhà.
Thời điểm này pháp luật VN không cho phép người có quốc tịch nước ngoài đứng tên quyền sở hữu nhà, đất. Do quen biết với vợ chồng ông Danh nên bà Liêng nhờ đứng tên giùm một số nhà, đất và giấy tờ nhà, đất do bà Liêng giữ.
Tuy nhiên, đến tháng 5-2007, bà phát hiện toàn bộ giấy tờ nhà, đất đã “không cánh mà bay”. Sau đó, bà Liêng được biết các giấy tờ nhà, đất này đã được vợ chồng ông Danh thế chấp ngân hàng để vay 2,5 tỉ đồng, song do không trả nợ lãi và gốc nên đến nay số tiền nợ này đã lên tới 9,4 tỉ đồng.
Không còn nhà để về, tháng 8-2007 bà Liêng đâm đơn kiện vợ chồng ông Danh đòi nhà. Vụ án đã kéo dài 12 năm, trải qua ba lần xét xử sơ thẩm, hai lần phúc thẩm và hai lần giám đốc thẩm nhưng vẫn chưa ngã ngũ…
Chủ đất, nhân chứng “chống” bị đơn
Tại nhiều phiên tòa, ông Danh cho rằng các nhà, đất đang tranh chấp là do vợ chồng ông mua trực tiếp từ chủ đất và giao tiền ở phòng công chứng. Vợ chồng ông cho bà Liêng ở nhờ vì bà Liêng hứa sẽ bảo lãnh con ông đi du học. Từ đó, ông yêu cầu tòa bác đơn của bà Liêng và bồi thường thiệt hại tiền cho thuê nhà 3,6 tỉ đồng.
Suốt quá trình xét xử, từ phiên tòa đầu tiên vào năm 2008 đến nay, những chủ đất cũ đều khẳng định chỉ bán đất cho bà Liêng.
Cụ thể, đối với căn nhà số 16 Chu Mạnh Trinh, P.8, TP Vũng Tàu thì vợ chồng ông Nguyễn Phan Giang xác nhận vào năm 2001 bà Liêng mua của vợ chồng ông Hải và nhờ vợ chồng ông đứng tên giùm. Sau đó, bà Liêng yêu cầu vợ chồng ông sang tên cho vợ chồng ông Danh.
Căn nhà liền kề số 18 Chu Mạnh Trinh trước đây của vợ chồng ông Trần Văn Hường và bà Trần Thị Hạnh bán cho bà Liêng với giá 32.000 USD. Sau đó, bà Liêng yêu cầu ông bà sang tên cho vợ chồng ông Danh.
Đối với khu đất khoảng 30m2 của bà Phan Thị Quan, năm 2003 bà bán cho bà Liêng với giá 50 triệu đồng. Sau đó, bà Liêng dẫn ông Danh đến xem thì ông Danh trả giá 45 triệu đồng, bà Quan đồng ý bán. Bà Liêng đưa tiền cho ông Danh để trả cho bà 45 triệu đồng.
Còn đối với 2 căn nhà giáp ranh số 14/1 và 14/3 Chu Mạnh Trinh, bà Nguyễn Thị Phượng, ông Bùi Văn Ca và bà Nguyễn Thị Bắc cho rằng trước đây bà Liêng nhiều lần hỏi mua nhưng họ chưa có nhu cầu bán.
Đến năm 2006, vợ chồng ông Danh và người giúp việc cho bà Liêng hỏi mua thì họ đồng ý bán với giá 700 triệu đồng. Sau khi mua, bà Liêng sửa chữa nhà và khuôn viên. Ngoài ra, năm 2004, mẹ bà Liêng mất tại một trong những căn nhà, đất đã mua này.
Bên cạnh đó, ông Trần Bá Thu – nguyên cảnh sát khu vực, bà Nguyễn Thị Quanh là người giúp việc cho bà Liêng, bà Bùi Thị Cúc – tổ trưởng tổ dân phố và một số người là thợ xây từng được bà Liêng thuê xây, sửa chữa nhà cũng xác nhận bà Liêng là người mua nhà, ông Danh chỉ đứng tên giùm cho bà Liêng.
Xử rồi hủy, hủy rồi lại xử…
Năm 2008 xử sơ thẩm, TAND TP Vũng Tàu bác yêu cầu khởi kiện của bà Liêng, công nhận các nhà, đất trên thuộc quyền sở hữu, sử dụng của vợ chồng ông Danh. Bà Liêng kháng cáo. Xử phúc thẩm, TAND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tuyên y án sơ thẩm.
Bà Liêng tiếp tục khiếu nại theo thủ tục giám đốc thẩm. Năm 2010, TAND tối cao hủy bản án sơ thẩm và phúc thẩm trên, đề nghị làm rõ số tiền bà Liêng thanh toán cho các căn nhà bao nhiêu, của vợ chồng ông Danh bao nhiêu và giải quyết số tiền bà Liêng đã bỏ ra mua nhà theo quy định.
Xét xử sơ thẩm lần 2, TAND TP Vũng Tàu vẫn giữ nguyên quyết định như bản án sơ thẩm lần 1, bác yêu cầu khởi kiện của bà Liêng, công nhận quyền sở hữu, sử dụng nhà, đất trên cho vợ chồng ông Danh. Bà Liêng kháng cáo.
Sau đó, TAND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tuyên y án sơ thẩm. Bà Liêng đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm. Sau đó, năm 2014, TAND tối cao hủy bản án sơ thẩm và phúc thẩm.
Năm 2016, xét thấy do vụ án có tính chất phức tạp nên TAND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu lấy vụ án lên giải quyết sơ thẩm. Xét xử sơ thẩm lần 3, TAND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Liêng, bà Liêng được quyền sở hữu, sử dụng các nhà, đất trên, hủy hợp đồng thế chấp tài sản giữa ngân hàng và vợ chồng ông Danh, buộc ngân hàng giao lại giấy tờ nhà, đất cho bà Liêng để bà chỉnh lý, sang tên theo quy định.
Bà Liêng có nghĩa vụ thanh toán cho vợ chồng ông Danh 1,4 tỉ đồng công sức của vợ chồng ông trong việc giao dịch, mua bán, sang nhượng giùm bà Liêng.
Không đồng ý, bà Liêng, ông Danh và ngân hàng cùng kháng cáo. Xử phúc thẩm lần 3, TAND cấp cao tại TP.HCM cho rằng theo hồ sơ vụ án và lời khai tại tòa, có đủ căn cứ xác định nhà, đất trên do bà Liêng mua, nhờ vợ chồng ông Danh đứng tên.
Vợ chồng ông Danh có công trong việc giúp bà Liêng mua các căn nhà này, do đó bà Liêng cần phải trả cho vợ chồng ông 1,4 tỉ đồng. Tuy nhiên, về hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và ông Danh thì từ khi thụ lý đến nay các bên chưa đối chiếu công nợ, chưa xác định rõ lãi trong hạn và quá hạn mà tòa sơ thẩm chưa làm rõ nên tuyên hủy một phần bản án.
Vận dụng pháp luật để bảo vệ “tình ngay”
Theo luật sư Nguyễn Kiều Hưng (Đoàn luật sư TP.HCM), pháp luật dân sự hình thành chủ yếu dựa trên những quy tắc xử sự chung trong xã hội, nói rõ hơn là hình thành từ cuộc sống. Xử sự trong cuộc sống thì bên cạnh cái lý cần phải có cái tình.
Lý có gian (nhờ đứng tên giùm) thì phải xem xét tình có ngay không. Khi có đủ cơ sở để xác định “tình ngay”, tức sự thật của vụ án, thì phải vận dụng pháp luật để bảo vệ cái tình đó.
Vụ án này là một ví dụ, hoàn toàn đã đủ cơ sở chứng minh bà Liêng nhờ người khác đứng tên giùm nhà, đất nhưng tòa án vẫn tuyên bà thua kiện là thiếu khách quan. Điều đó làm mất thời gian, công sức và đánh mất lòng tin vào công lý của người dân.
(Theo Tuổi Trẻ)