Vì sao Bộ Giao thông xin trả dự án đường sắt Ngọc Hồi – Yên Viên?
Gặp nhiều khó khăn với dự án tuyến metro số 1 Yên Viên – Ngọc Hồi, Bộ GTVT vừa kiến nghị Chính phủ chuyển dự án về TP Hà Nội làm chủ đầu tư.
Dự án đường sắt đô thị tuyến số 1 Hà Nội (Yên Viên – Ngọc Hồi) chưa thể triển khai thi công nhưng đã “đội” vốn gấp 9 lần so với ban đầu và lại “dính” tai tiếng hối lộ. Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) vừa kiến nghị Chính phủ chuyển Dự án này cho UBND TP.Hà Nội làm chủ đầu tư.
Dự án này được Chính phủ chấp thuận báo cáo nghiên cứu tiền khả thi từ năm 2004, với quy mô xây dựng tổ hợp ga và đoạn cầu cạn từ Giáp Bát – Gia Lâm và cầu vượt sông Hồng. Chiều dài toàn tuyến đường sắt này 28,7 km, với tổng mức đầu tư 9.197 tỷ đồng, thực hiện trong giai đoạn 2007-2017.
Sau khi điều chỉnh, dự án được phân kỳ đầu tư lại, trong đó giai đoạn I chỉ tập trung đầu tư xây dựng khu tổ hợp ga Ngọc Hồi (tổng mức đầu tư 19.046 tỷ đồng, mục tiêu hoàn thành vào năm 2024), còn hướng tuyến đường sắt vẫn đang trong giai đoạn điều chỉnh.
Bộ GTVT vừa có văn bản báo cáo Thủ tướng Chính phủ tình hình triển khai dự án đường sắt đô thị TP Hà Nội, tuyến số 1 Ngọc Hồi – Yên Viên.
Hiện dự án chủ yếu vẫn đang tập trung công tác giải phóng mặt bằng, thiết kế, lựa chọn nhà thầu cho các gói thầu chính của dự án, chưa triển khai được gói thầu thi công, xây lắp nào.
Bộ GTVT cho biết, do khó khăn về nguồn vốn đối ứng để giải phóng mặt bằng khu tổ hợp ga Ngọc Hồi nên việc hoàn thành tổ hợp ga vào năm 2024 gặp nhiều khó khăn. Do đó, Bộ GTVT kiến nghị Thủ tướng giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu, tham mưu Chính phủ báo cáo Quốc hội có ý kiến về chủ trương thực hiện đối với tổng thể dự án.
Bộ GTVT cũng kiến nghị chỉ làm chủ đầu tư với phần đường sắt quốc gia trong khu tổ hợp ga Ngọc Hồi, các hạng mục còn lại thuộc tuyến đường sắt đô thị Ngọc Hồi – Yên Viên (gồm cả phần đường sắt đô thị tại tổ hợp ga Ngọc Hồi) giao UBND TP.Hà Nội làm chủ đầu tư.
Theo Bộ GTVT, dự án đã có quá trình triển khai dài, phát sinh nhiều hạng mục, phải bổ sung, điều chỉnh thiết kế cơ sở, thay đổi quy mô đầu tư nhằm phù hợp với Luật Quy hoạch, Luật Thủ đô và các điều kiện thực tế, chịu ảnh hưởng của trượt giá xây dựng, tăng tỷ giá giữa tiền Yên và tiền Việt Nam; Ảnh hưởng của vụ việc liên quan đến Công ty tư vấn giao thông Nhật Bản (nhà thầu JTC) khiến dự án bị tạm dừng… dẫn đến tổng mức đầu tư dự án tăng.
Bộ GTVT ước tính tổng mức đầu tư toàn bộ dự án đường sắt đô thị Ngọc Hồi – Yên Viên khoảng 81.537 tỷ đồng, tăng 9 lần so với dự toán ban đầu.
Vì sao dự án đội vốn gấp 9 lần?
Theo báo cáo nghiên cứu tiền khả thi trình Thủ tướng vào cuối năm 2002, tuyến metro số 1 Yên Viên- Ngọc Hồi có tổng mức đầu tư 9.197 tỉ đồng, được phân kỳ thành 3 giai đoạn.
Tuy nhiên, từ năm 2004 đến nay, dự án lại có thêm 3 lần phân chia lại phạm vi và phân kỳ đầu tư. Hiện tại, tuyến metro số 1 gồm các dự án thành phần: giai đoạn 1 điều chỉnh; giai đoạn 2 A điều chỉnh và giai đoạn 2 B.
Theo nghiên cứu tiền khả thi năm 2002, dự án tuyến đường sắt đô thị số 1 có chiều dài 28,7km, đường đôi, khổ lồng 1m và 1,435m, tổng mức đầu tư 9.197 tỷ đồng, tiến độ 2007-2017. Dự án đã giải ngân 1.820 tỷ đồng (gồm 987 vốn đối ứng để thực hiện công tác thiết kế kỹ thuật, GPMB và chi phí khác). Kế hoạch đầu tư giai đoạn 2016-2020 được bố trí 512 tỷ vốn đối ứng và 4.500 tỷ vốn ODA.
Đến nay, tổng mức đầu tư toàn bộ dự án toàn tuyến ước tính khoảng 81.537 tỷ đồng, tăng 9 lần so với ban đầu. Tuy nhiên, đến nay sau 17 năm, dự án vẫn chưa được chính thức khởi công.
Theo Bộ GTVT, lý do quá trình triển khai có các hạng mục phát sinh phải bổ sung, điều chỉnh thiết kế nhằm phù hợp với quy định pháp luật (Luật Quy hoạch, Luật Thủ đô) điều kiện thực tế và quy hoạch của địa phương; cùng đó là trượt giá xây dựng, tăng tỷ giá giữa tiền Yên và tiền Việt Nam; ảnh hưởng của vụ việc công ty JTC khiến dự án bị dừng từ 2014-2016… dẫn đến phải điều chỉnh dự án.
Các nguyên nhân khiến tổng mức đầu tư tăng do các nguyên nhân như: Điều chỉnh thiết kế cơ sở (tăng 332% so với tổng mức được duyệt), thay đổi quy mô đầu tư (tăng 131%), thay đổi chính sách tiền lương, trượt giá; thời gian thực hiện dự án kéo dài (phát sinh chi phí tư vấn, quản lý, phí cam kết…), tăng chi phí dự phòng, chi phí giải phóng mặt bằng, cơ cấu và lãi suất các khoản vay của nhà tài trợ.
Phi Long/VOV