VEPR: ‘Cẩn trọng hợp đồng EPC với nhà thầu Trung Quốc’
Nêu những bài học thực tế từ dòng vốn và nhà thầu Trung Quốc, các chuyên gia nhấn mạnh quyền lựa chọn dự án, nhà thầu, công nghệ là của Việt Nam, do đó, phải nâng cao trách nhiệm.
Mới đây, Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) đã công bố kết quả nghiên cứu “Một số nhận định về vốn đầu tư của Trung Quốc tại Việt Nam” tại Hà Nội.
Vốn Trung Quốc không rẻ
Trình bày tổng quan về hợp đồng EPC (Thiết kế – Cung ứng vật tư, thiết bị – Xây dựng), TS Phạm Sỹ Thành – Giám đốc Chương trình nghiên cứu kinh tế Trung Quốc, khuyến nghị Việt Nam cần cẩn trọng với hợp đồng dạng này.
Vốn Trung Quốc dù lãi suất thấp cũng không rẻ hơn so với các nước như EU, Nhật Bản bởi tổng thầu Trung Quốc thường tính thêm các chi phí liên quan đến hợp đồng.
TS Phạm Sỹ Thành
Theo ông Thành, vốn Trung Quốc dù lãi suất thấp lại không rẻ hơn so với các nước như EU, Nhật Bản bởi tổng thầu Trung Quốc thường tính thêm các chi phí liên quan đến hợp đồng.
Khi cộng lại, mức lãi suất thực tế của nước này xấp xỉ các nước có công nghệ tiên tiến.
Trong khi đó, các dự án có sự tham gia của nhà thầu Trung Quốc gặp các vấn đề về kỹ thuật, tác động môi trường và chậm tiến độ thường xuyên.
Nhóm nghiên cứu VEPR chỉ ra có 25/86 dự án thủy điện chậm tiến độ. Có tới 8 trường hợp nguyên nhân do nhà thầu, với 5 trong số đó có sự tham gia của nhà thầu Trung Quốc. Ngoài ra, 20/86 nhà máy thủy điện ghi nhận các vấn đề về môi trường.
Ông Thành dẫn ra ví dụ về hai nhà máy nhiệt điện Hải Dương và Mông Dương 1 để thấy sự khác biệt giữa nhà thầu EPC Trung Quốc và Hàn Quốc. Hai dự án cùng được đưa ra vào cuối năm 2011 và đầu năm 2012.
Trong khi tổng thầu Trung Quốc nhiều lần xin gia hạn tài chính, lùi tiến độ và đến tháng 7/2018 mới chỉ thi công được 30% tiến độ, thì nhà máy kia đã hoàn thành cả 2 tổ máy vào năm 2015. Đến nay, nhà máy do Hàn Quốc phụ trách đã sản xuất được 12,86 tỷ kWh điện.
Về kỹ thuật, so sánh giữa nhà máy nhiệt điện Na Dương (EPC Nhật Bản) và Cẩm Phả (EPC Trung Quốc), TS Thành dẫn chứng nhà máy do Trung Quốc phụ trách nhiều lần xảy ra sự cố với hậu quả nghiêm trọng. Nhà máy nhiều lần phải dừng hoạt động do cháy nổ phòng ắc quy, cánh quạt tổ phát điện bị hỏng,…
Trong số 30 nhà máy nhiệt điện của EPC Trung Quốc đang được vận hành, 19 nhà máy có các phản ánh về vấn đề môi trường.
VEPR cũng lấy dự án metro Cát Linh – Hà Đông làm dẫn chứng. Theo điều khoản ban đầu của hợp đồng, tổng thầu EPC phải hoàn thành công trình trong vòng 48 tháng kể từ năm 2010.
Tuy nhiên trên thực tế, thời hạn này đã bị lùi lại tới ngày 30/9/2017. Và tới 11/2018, khi Kiểm toán Nhà nước tiến hành kiểm tra dự án, công trình vẫn chưa hoàn thành, đã chậm 4 năm so với tiến độ đề ra ban đầu.
Với lĩnh vực hạ tầng, VEPR nêu ví dụ về tình trạng đội vốn 315 triệu USD của đường sắt Cát Linh – Hà Đông. Sau nhiều năm chậm tiến độ, đến nay dự án vẫn chưa được đưa vào khai thác thương mại.
Quyền lựa chọn của Việt Nam
Các chuyên gia VERP cũng trấn an về mối lo vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI từ Trung Quốc.
PGS.TS Nguyễn Đức Thành cho biết dòng vốn FDI từ Trung Quốc chỉ chiếm tỷ trọng tương đối nhỏ so với các “tay chơi” lớn. Thống kê gần nhất năm 2018, vốn Trung Quốc bằng khoảng 1/2 vốn Nhật Bản, Hàn Quốc.
“Tôi cho rằng có nhiều thứ chúng ta đang thổi phồng, ví dụ ta thường nghĩ vốn Trung Quốc vào đến nơi rồi, chiếm hết Việt Nam rồi nhưng khi kiểm tra lại không thấy”, Viện trưởng VEPR nói.
Ông Thành phân tích Trung Quốc thực tế mới chỉ xuất khẩu vốn vào Việt Nam trong những năm gần đây và chưa chú trọng đầu tư vào lĩnh vực nào cụ thể. Trong khi đó, Nhật Bản thường “rót tiền” vào năng lượng, dầu khí, Hàn Quốc thì tập trung vào điện tử.
Vị chuyên gia kinh tế cũng khẳng định ảnh hưởng của dòng vốn FDI tới kinh tế – xã hội Việt Nam không nhiều nhưng lại gây ra một số hệ quả về môi trường, xã hội và thị trường lao động.
Theo số liệu từ Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Trung Quốc chảy vào Việt Nam tăng qua từng năm.Năm 2012, tỷ trọng vốn FDI tính cả Hong Kong và Trung Quốc đại lục vào Việt Nam chỉ chiếm 8%. Đến 6 tháng đầu năm 2019, con số này tăng mạnh lên mức 12,4%, với tổng vốn FDI đạt 7,59 tỷ USD.
Ông Trương Đình Tuyển – nguyên Bộ trưởng Thương mại (nay là Bộ Công Thương), chia sẻ thật rằng cá nhân ông “cũng từ sợ đầu tư Trung Quốc vì nghe đồn nhiều quá”.
Nước nào cũng muốn đẩy công nghệ cũ ra nước ngoài, không riêng gì Trung Quốc. Quyền lựa chọn dự án đầu tư, nhà thầu, công nghệ là của Việt Nam.
Cựu Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển
Ông dẫn lại những định kiến không tốt về dòng vốn Trung Quốc thời gian qua. Tuy nhiên, ông cũng lưu ý phải tỉnh táo, công bằng hơn khi đánh giá về mối quan hệ kinh tế với nhà đầu tư Trung Quốc.
Theo ông Tuyển, bất kỳ nước nào cũng muốn đẩy công nghệ cũ ra nước ngoài, không riêng các doanh nghiệp Trung Quốc. Quyền lựa chọn dự án đầu tư, nhà thầu, công nghệ là của Việt Nam.
“Dòng vốn Trung Quốc có thể sẽ càng ngày càng nhiều hơn. Không còn cách nào khác chúng ta phải nâng cao trách nhiệm của mình lên”, ông Tuyển nói.
“Việt Nam cần tăng cường công tác quản lý đối với các hoạt động đầu tư của FDI và hoạt động khác liên quan như môi trường, lao động di cư, bảo vệ môi trường, khai thác các nguồn tài nguyên một cách bền vững…”, PGS.TS Nguyễn Đức Thành nhấn mạnh.
(Theo Zing News)