+
Aa
-
like
comment

Truyền thông quốc tế: Vì sao Việt Nam vượt Trung Quốc trở thành nơi sản xuất giày Nike lớn nhất?

Bảo Trâm - 07/01/2022 10:48

Vừa qua, thông tin Việt Nam vượt Trung Quốc trở thành nơi sản xuất giày Nike lớn nhất thế giới khiến dư luận quốc tế vô cùng quan tâm. Trang Vietnam Briefing của tập đoàn Dezan Shira & Associates, CNBC, CNA đồng loạt có bài viết nêu thông tin cùng với loạt phân tích lí do “Vì sao Việt Nam vượt Trung Quốc trở thành nơi sản xuất giày Nike lớn nhất?”.

Hãng tin CNBC dẫn báo cáo tài chính vừa công bố của Hãng thể thao Nike cho biết, năm 2021, Việt Nam sản xuất giày cho Nike chiếm 51%, trong khi tỉ lệ này tại Trung Quốc đã rớt xuống còn 21%. Hồi năm 2006, Trung Quốc sản xuất giày cho Nike là 35%.

Báo cáo cũng cho biết, Indonesia cũng vượt qua Trung Quốc về tỉ lệ sản xuất giày Nike với con số là 35%.

Thực tế, Nike không phải là đại diện duy nhất dịch chuyển nhà máy từ Trung Quốc sang Việt Nam. Ngay cả đối thủ lớn nhất của họ là Adidas cũng đi theo hướng tương tự, với 40% sản lượng giày dép được sản xuất tại Việt Nam.

Trang CNA cho biết, các sản phẩm mang thương hiệu Nike được cung cấp bởi 191 nhà máy sản xuất đặt tại 14 quốc gia trên toàn cầu. Trong đó, hầu hết sản phẩm giày dép của Nike đều được sản xuất ngoài Mỹ thông qua hơn 15 nhà sản xuất theo hợp đồng độc lập. Mặc dù trước năm 2010, Trung Quốc là nhà sản xuất giày dép Nike lớn nhất, nhưng đến nay đã bị Việt Nam thay thế.

Riêng trang Vietnam Briefing phân tích, khi các doanh nghiệp toàn cầu tìm cách đa dạng hóa, tăng khả năng phục hồi và kết nối chuỗi cung ứng của họ và giảm sự phụ thuộc vào một quốc gia duy nhất, Việt Nam đã trở thành điểm đến hàng đầu để đầu tư vào lĩnh vực sản xuất do vị trí chiến lược và lợi thế về vận chuyển, lao động cạnh tranh và chi phí sản xuất.

So với các nước Đông Nam Á khác, Việt Nam nổi bật với cảng hàng không quốc tế, đường sắt kết nối tạo thuận lợi cho dòng chảy sản xuất và vận tải.

Năm 2020, lĩnh vực chế biến và chế tạo tiếp tục dẫn đầu về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của cả nước, chiếm 58,2% tổng vốn đầu tư. Với sự đóng góp của nó, nền kinh tế Việt Nam được dự báo sẽ lấy lại động lực và đạt mức tăng trưởng GDP từ 6 đến 6,5 phần trăm vào năm 2022.

Trong giai đoạn 2020-2021, do Covid-19, lĩnh vực sản xuất phải chịu đựng những gián đoạn đáng kể trong chuỗi cung ứng. Việc đóng cửa kinh doanh tạm thời, giao thông khó khăn và thiếu nhân viên đều góp phần làm giảm sản lượng sản xuất ở Việt Nam.

Tuy nhiên, với chiến lược sống an toàn với dịch bệnh và độ phủ vaccine cao tại Việt Nam, ban lãnh đạo Nike vẫn đặt niềm tin và lạc quan với chuỗi cung không còn bị đứt đoạn. Hiện tại các nhà máy Nike tại Việt Nam đã quay lại hoạt động bình thường.

Hơn nữa, Việt Nam được quảng cáo là nhà sản xuất giá rẻ với giá nhân công cạnh tranh. Trung bình, chi phí lao động của Việt Nam bằng một nửa chi phí lao động của Trung Quốc ở mức 2,99 đô la Mỹ (68.000 đồng) mỗi giờ so với 6,50 đô la Mỹ (148.000 đồng) mỗi giờ tương ứng. Điều này góp phần làm cho Việt Nam ngày càng có vị thế như một giải pháp thay thế hiệu quả hơn về chi phí so với các đối tác trong khu vực, theo Vietnam Briefing.

Thứ hai, Việt Nam có một lực lượng lao động tương đối lớn, có trình độ học vấn tốt, trở thành một trung tâm sản xuất hấp dẫn. Ngoài ra, Chính phủ đã cung cấp nhiều khóa đào tạo và giáo dục nghề nghiệp khác nhau để trang bị cho lực lượng lao động.

Với tình trạng thiếu lao động hiện nay và thiếu công nhân lành nghề trong các ngành cụ thể như CNTT, chính phủ đã đưa ra các chiến lược và chương trình bổ sung.

Ví dụ, một số khuyến khích đã được ban hành như gần đây đã phê duyệt chiến lược giáo dục và đào tạo nghề 202-2030 và ban hành Quyết định 17 về hỗ trợ đào tạo nghề. Điều này nêu bật cam kết của Việt Nam trong việc nâng cao hiệu quả đào tạo và giáo dục cho thị trường lao động.

Nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA), chẳng hạn như Hiệp định Thương mại Tự do EU-Việt Nam (EVFTA), Hiệp định Thương mại Tự do Anh-Việt (UKVFTA) và Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), cũng tăng cường khả năng cạnh tranh của Việt Nam với tư cách là một trung tâm xuất khẩu sản xuất giá rẻ.

Các hiệp định thương mại như vậy cho phép Việt Nam tận dụng lợi thế của việc giảm thuế quan, cả trong Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) và với EU và Hoa Kỳ để thu hút các công ty xuất khẩu sản xuất tại Việt Nam và xuất khẩu sang các đối tác ngoài ASEAN.

Ngoài ra, Việt Nam còn được hưởng lợi từ hậu quả của cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung, khi mức thuế cao hơn của Mỹ đối với một loạt mặt hàng xuất khẩu của Trung Quốc đã thúc đẩy các nhà sản xuất chuyển sản xuất khỏi Trung Quốc để hướng tới các trung tâm sản xuất thay thế như Việt Nam.

Việt Nam nói riêng đã phát triển để trở thành một điểm đến rẻ tiền và linh hoạt cho sản xuất bên ngoài Trung Quốc, tuy nhiên, Việt Nam vẫn cần phát triển để tận dụng hết khả năng sản xuất của mình.

Hơn nữa, Việt Nam đã ban hành một số ưu đãi về thuế và miễn thuế đối với các dự án sản xuất dưới hình thức thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), đối với các dự án đầu tư lớn có quy mô vốn trên 6 nghìn tỷ đồng (264 triệu USD) cũng như các ưu đãi trong các khu công nghệ cao. , các khu công nghiệp nhất định và các địa bàn kinh tế – xã hội khó khăn.

Ngoài ra, các ưu đãi cũng được dành cho lĩnh vực công nghệ cao cũng như dệt may, CNTT, lắp ráp ô tô, v.v.

Theo Vietnam Briefing, mặc dù bị ảnh hưởng vì Covid-19, Việt Nam vẫn được coi là trung tâm sản xuất chủ chốt và đang phát triển, tồn tại sau sự gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu.

Bảo Trâm (Theo CNA, CNBC, Vietnam Briefing)

Tags:
Bài mới
Đọc nhiều