Trong lịch sử Việt Nam và cả thế giới, những năm 1942-1945 được xem là “ám ảnh lịch sử”, “thảm họa lớn nhất hành tinh” lấy đi sinh mạng của gần 10 triệu người (trong đó có 2 triệu người Việt Nam). Tất cả đã hằn sâu, trở thành vết sẹo trong ký ức dân tộc, mà còn là một trong những nạn đói kinh hoàng nhất từng xảy ra trong lịch sử nhân loại.
Đã gần 80 năm trôi qua, liệu Chiến tranh, Covid-19 và biến đổi khí hậu có thể nào gây nên nạn đói ở Đông Nam Á một lần nữa? Đặc biệt là khi một nhà nghiên cứu đã cho biết, gần 20% dân số Đông Nam Á phải đối mặt với tình trạng mất an ninh lương thực ở mức trung bình hoặc nghiêm trọng trong tương lai.
Chúng ta đang sống trong thời kỳ kỳ lạ. Trong khi một bộ phận nhỏ thích sự dồi dào về vật chất và trông chờ vào cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư và du lịch vũ trụ, thì một tỷ lệ lớn dân số toàn cầu phải đối mặt với nạn đói và mất an ninh lương thực.
Do biến đổi khí hậu, tác động kinh tế xã hội của đại dịch Covid-19 và các cuộc xung đột khác nhau, thế giới đang tồi tệ hơn bao giờ hết về vấn đề xóa đói. Khoảng 10% dân số toàn cầu – khoảng 768 triệu người – phải đối mặt với nạn đói và thiếu dinh dưỡng vào năm 2020. Hơn 750.000 người dự kiến sẽ phải đối mặt với nạn đói và chết vào năm 2022.
Dựa trên các xu hướng hiện tại, thế giới sẽ không đạt được Mục tiêu Phát triển Bền vững 2 (SDG2), mục tiêu đạt được “không còn nạn đói” vào năm 2030.
Ở Đông Nam Á, 7,3% dân số trong khu vực bị suy dinh dưỡng trong khi 18,8% phải đối mặt với tình trạng mất an ninh lương thực vừa hoặc nghiêm trọng vào năm 2020. Tính đến năm 2020, 27,4% trẻ em Đông Nam Á dưới 5 tuổi – phần lớn thuộc các gia đình nghèo và khu vực nông thôn, chậm phát triển.
Một báo cáo gần đây cho thấy rằng các quốc gia thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã đạt được tiến bộ đáng kể để giải quyết tình trạng mất an ninh lương thực và suy dinh dưỡng trong vài năm qua, nhưng cần đầu tư có mục tiêu hơn và mở rộng các chương trình dinh dưỡng nếu ASEAN là đáp ứng các mục tiêu dinh dưỡng toàn cầu SDG2 và năm 2025.
An ninh lương thực không chỉ bao gồm số lượng thực phẩm sẵn có – định nghĩa của nó còn bao gồm khả năng mua đủ lượng thực phẩm bổ dưỡng của mọi người và liệu họ có thể làm như vậy một cách nhất quán hay không.
Hơn nữa, gần 3/4 số hộ gia đình ASEAN bị giảm thu nhập do đại dịch. Tất cả điều này đã ảnh hưởng xấu đến khả năng mua thực phẩm đầy đủ của mọi người.
Ở Đông Nam Á, đại dịch và xung đột ở Ukraine đã làm gián đoạn nghiêm trọng các chuỗi cung ứng lương thực, góp phần làm tăng giá cả. Những gián đoạn như vậy bao gồm giảm nguồn cung lao động do hạn chế đi lại, mặc dù những điều này đang bắt đầu giảm bớt.
Những người nghèo nhất Đông Nam Á là những người bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi những cơn gió ngược này. Trớ trêu thay, ở Thái Lan – quốc gia tự xưng là “Nhà bếp của thế giới” – gần 30% người Thái trải qua tình trạng mất an ninh lương thực ở mức trung bình hoặc nghiêm trọng trong những năm 2018 đến năm 2020, so với giai đoạn 2014-2016.
Cũng có bằng chứng cho thấy lạm phát giá lương thực và giảm thu nhập đã buộc nhiều hộ gia đình có thu nhập thấp ở các nước như Lào, Malaysia và Campuchia tiêu thụ thực phẩm rẻ hơn nhưng ít dinh dưỡng hơn trong những năm gần đây.
Các nỗ lực giải quyết nạn đói và suy dinh dưỡng ở Đông Nam Á còn phức tạp hơn nữa do tác động của biến đổi khí hậu, tác động tương tác và khuếch đại các động lực chính khác của mất an ninh lương thực như xung đột, suy thoái kinh tế, nghèo đói và bất bình đẳng.
Ủy ban Liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) đã đề xuất, sử dụng các dự báo với độ tin cậy cao về mặt thống kê, rằng biến đổi khí hậu sẽ làm giảm nguồn cung lương thực và gây ra giá cả cao hơn, sẽ làm suy yếu an ninh lương thực ở Nam và Đông Nam Á.
Một ước tính cho thấy năng suất lúa ở Đông Nam Á có thể giảm tới 50% do lũ lụt, hạn hán và áp lực nắng nóng. Việc trồng lúa ở các khu vực đồng bằng cũng sẽ bị ảnh hưởng nặng nề do độ mặn của nước tăng, do mực nước biển cao hơn.
Tác động của biến đổi khí hậu đối với an ninh lương thực không chỉ là việc giảm cung cấp các loại ngũ cốc lương thực chính, chẳng hạn như gạo. Ví dụ, các kiểu thời tiết khắc nghiệt có thể sẽ cản trở khả năng kiếm thức ăn ổn định của mọi người, chẳng hạn như làm gián đoạn các tuyến đường vận chuyển.
Đáng chú ý, nhiều người ở ASEAN dựa vào nông nghiệp và ngư nghiệp để kiếm sống. Những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu đối với năng suất nông nghiệp và trữ lượng cá có thể làm giảm thu nhập và khả năng mua thực phẩm đầy đủ của những người này.
Biến đổi khí hậu cũng có khả năng làm giảm việc sản xuất và cung cấp thực phẩm dinh dưỡng hơn nữa, đây là vấn đề rất khó khăn vì sự sẵn có của thực phẩm dinh dưỡng trong nguồn cung cấp thực phẩm của ASEAN (tức là trái cây, rau và các nguồn protein khác nhau) vốn đã khá hạn chế.
Một dấu hiệu tốt là ASEAN đã thiết lập Khuôn khổ An ninh Lương thực Tích hợp trong khu vực (AIFS) và các quốc gia thành viên đã thông qua Tuyên bố về Chấm dứt Mọi Hình thức Suy dinh dưỡng vào năm 2017. Các nhà hoạch định chính sách Đông Nam Á cần tăng cường nỗ lực chuẩn bị hơn nữa cho các tác động của khí hậu thay đổi về an ninh lương thực.
Tại Việt Nam, an ninh lương thực quốc gia luôn là vấn đề thiết yếu, cấp bách khi nguồn cung và khả năng tiếp cận lương thực đang chịu tác động lớn của biến đổi khí hậu, thiên tai, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh xuyên biên giới ngày càng khốc liệt, khó lường; quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ. Từ lâu, nghị quyết của Chính phủ đã yêu cầu ổn định 3,5 triệu hecta đất trồng lúa, đảm bảo an ninh lương thực trong bối cảnh thiên tai, dịch bệnh.
Mục tiêu đặt ra là bảo đảm đủ lương thực, thực phẩm cho tiêu dùng trong nước trong mọi tình huống và một phần cho xuất khẩu; nâng cao thu nhập cho người dân để bảo đảm tiếp cận được lương thực chất lượng, an toàn thực phẩm; từng bước nâng cao tầm vóc, thể lực, trí lực người dân Việt Nam.
Bảo Trâm (Theo CNA)