+
Aa
-
like
comment

Thâm cung bí sử: Tháng 2 năm 1979, tại sao Trung Quốc xâm lược Việt Nam?

13/07/2020 11:35

Ngược dòng lịch sử, các nhà nghiên cứu cho biết: Vào 03/1975, quân đội nhân dân Việt Nam đã mở chiến dịch đánh vào Ban Mê Thuột, để giải phóng Tây Nguyên. Ngay sau khi biết tin đó, Trung Quốc đã không vui. Họ biết chắc chắn Việt Nam sẽ mở cuộc tổng tấn công lớn để thống nhất đất nước mình. Chính Trung Quốc đã tìm cách can ngăn điều đó và khuyên Việt Nam chỉ dừng lại đánh ở mức Trung đoàn và du kích, đừng đánh cấp Sư đoàn hay Quân đoàn…

Xe tăng Trung Quốc bị bắn hạ ở bản Sẩy (Cao Bằng)

Tổng Bí thư Lê Duẩn thời điểm đó đã thẳng thắn bác bỏ và nói với Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai rằng: “Đất nước chúng tôi phải do chúng tôi tự quyết định, mong Trung Quốc tôn trọng điều đó!”

Nhưng rất tiếc, với dã tâm chia cắt Vệt Nam không thành, sau những thỏa thuận đi đêm chia chác với Mỹ trên lưng Việt Nam, ngay sau khi Việt Nam chạm bánh xe tăng vào Dinh Độc lập, quân PolPot đã bắt đầu đánh chiếm đảo Thổ Chu, hành quyết 500 dân thường Việt Nam.

Sau khi thống nhất và vãn hồi trật tự xã hội, đầu năm 1976 Bộ Chính Trị do Tổng Bí thư Lê Duẩn chủ trì tiến hành họp khẩn trương. Tình hình bên kia biên giới báo về có sự bất ổn, một bên là Khơ Me Đỏ hung hăng tàn bạo muốn gây chiến, một bên là sức ép của Trung Quốc tạo nên 1 thế vòng cung siết chặt Việt Nam.

Các đơn vị của Mỹ ở Hàn, Nhật, Philippinne đã gia tăng quân và sự đi lại liên tục của Trung Quốc với Mỹ thời gian đó nhiều bất thường. Tổng Bí thư Lê Duẩn phân tích và đánh giá tình hình trước Bộ Chính trị: “Phía Bắc chỉ là nghi binh, nhưng cũng là đòn quyết định chiến lược nếu chúng ta không kịp thời đối phó. Khả năng rất cao chúng sẽ quốc tế hóa vấn đề xung đột biên giới. Chúng sẽ lập tức đưa quân vào tham chiến, lập vùng đệm và tạo thế cho bọn tàn quân ngóc đầu dậy, sau đó sẽ tấn công chúng ta 2 mũi ba hướng tạo thế vòng cung tiêu diệt chúng ta. Vấn đề là phải làm thế nào để quân đội ta có thể trở đầu kịp trước tình hình này”.

Một mặt khác, Việt Nam đã nhẫn nhịn tối đa như lời Thủ tướng Hunsen từng nói: “Chính Phủ Việt Nam thời đó đã từ chối lời đề nghị của chúng tôi để tránh chiến tranh”. Đúng như vậy, thời đó chúng ta đã nhẫn nhịn đến mức để cho quân Polpot tràn sâu vào nội địa hơn 10 cây số, Việt Nam đã đánh đuổi ra khỏi biên giới chứ không tiến vào Campuchia.

Quân Pol Pot đi tới đâu cũng giết người hàng loạt, dã man không bút nào tả hết, chúng cướp bóc tài sản, đốt phá nhà cửa, tàn sát không thương tiếc. Trong ảnh là xác người dân Ba Chúc bị Pol Pot thảm sát.

Với mong muốn hòa bình để phát triển đất nước sau hàng chục năm chiến tranh kéo dài, Việt Nam đã đề nghị Polpot lập vùng phi quân sự và đàm phán bằng ngoại giao nhưng Polpot phớt lờ.

Tháng 11/1978, Polpot ra nghị quyết tiêu diệt sạch người Việt Nam: Hi sinh hơn 2 triệu người Campuchia để “làm cỏ” 50 triệu người Việt Nam. Sau nghị quyết đó, quân Khơ Me Đỏ đánh rất tàn bạo, thảm sát thảm khốc hơn, ví như Ba Chúc bị chúng nó thảm sát 3 nghìn người.

Không thể chấp nhận sự tàn bạo của bè lũ Polpot, Việt Nam đã gửi đơn tố cáo và hình ảnh thảm sát dân Việt Nam lên Liên Hiệp Quốc và nhờ thế giới can thiệp. Phản hồi lại cho Việt Nam, Liên Hiệp Quốc đáp: “Các bằng chứng Việt Nam đưa ra khá mơ hồ, không thuyết phục được thành viên Liên Hiệp Quốc, thậm chí có thể là ngụy tạo, đề nghị Việt Nam tỏ rõ thiện chí giải quyết vấn đề tranh chấp về biên giới lãnh thổ với Campuchia để tránh những bất hòa đáng tiếc”.

Kêu lên Liên Hiệp quốc không được, nhờ sự can thiệp bằng ngoại giao không được, trong khi quân Polpot vẫn đánh sâu vào nội địa. Chúng ta chỉ còn 1 cách duy nhất đó là sử dụng vũ lực để giải quyết xung đột.

Tháng 12/1978, Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu quốc Campuchia ra đời và nhờ Chính phủ và nhân dân Việt Nam giúp đỡ giải phóng người Campuchia thoát khỏi diệt chủng Khơ Me đỏ. Danh đã chính, ngôn đã thuận, Việt Nam tập trung quân số và hỏa lực để chuẩn bị cho cuộc phản công.

Những đống xương người chết được cất giữ tại nhà mồ tạm dựng sau chùa Phi Lai.

Trước khi phản công, Tổng Bí thư cho triệu tập Tướng Lê Trọng Tấn lên hỏi ý kiến, Tướng Tấn đã trả lời thẳng thắn: “Trung Quốc 25 năm qua chưa trận mạc không có gì đáng ngại, chỉ cần tăng cường năng lực chiến đấu cho dân quân tự vệ dọc tuyến biên giới là đủ kìm chân Trung Quốc ít nhất 1 tháng; để bảo vệ Thủ đô chỉ cần Quân đoàn 1 và 5 Sư cơ động là đủ kìm chân Trung Quốc ít nhất trong 6 tháng. Tôi tin ta đủ khả năng diệt bọn Polpot trong 2 tuần rồi lập tức quay ra Bắc ứng chiến”.

Tổng Bí thư Lê Duẩn rất tin tưởng Tướng Lê Trọng Tấn và đã giao cho ông làm Tư lệnh chiến dịch giải phóng Campuchia. Đúng như lời nhận định của Tướng Tấn, chúng ta đưa quân giải phóng Campuchia vỏn vẹn không đến 1 tuần. Ngay sau khi giải phóng Campuchia, chúng ta được lệnh bàn giao lại cho lực lượng cứu quốc Campuchia rồi tiến hành rút quân.

Nhưng không được, quân Polpot với vùng đệm là Thái Lan đã được Mỹ và Trung Quốc sắp xếp từ trước, tuồn vũ khí và tiền bạc giúp chúng tiếp tục đánh phá Campuchia và chính quyền non trẻ. Một quyết định sinh tử vào thời điểm đó của Trung ương là để quân lại giúp bạn. Đó là quyết định mạo hiểm nhưng cũng là quyết định sáng suốt lúc đó, nếu không thì rất có thể với lực lượng non kém của Cách mạng Camphuchia sẽ bị Polpot đè bẹp và chiến tranh sẽ tiếp tục nổ ra với chúng ta.

Trở lại vấn đề Biên giới phía Bắc, sau khi Polpot bị đập nhừ tử, Trung Quốc tuyên bố “Dạy cho Việt Nam một bài học” ngông cuồng nói rằng: “Sáng ăn phở Hà Nội, tối cơm tấm Sài Gòn”. Nhưng kết quả chúng đã vấp phải cuộc chiến ròng rã 10 năm trời.

Vậy Trung Quốc đánh Việt Nam làm gì? Họ có 3 mục đích chính, đó là:

– Thanh trừng nội bộ: Đặng Tiểu Bình muốn chiếm lấy sự lãnh đạo quân đội từ tay Hoa Quốc Phong;

– Muốn cứu nguy chế độ Polpot gây sức ép bằng quân sự với Việt Nam;

– Chứng minh với Phương Tây là Trung Quốc đã không còn “bản chất Cộng sản” như thời Mao Trạch Đông, để tranh thủ sự ủng hộ và viện trợ của Tư bản, cho phát triển kinh tế sau cuộc thanh trừng Cách mạng văn hóa, đã khiến họ kiệt quệ.

Hơn ai hết người Trung Quốc hiểu rõ không thể sa lầy ở Việt Nam như Mỹ. Họ cũng không thể ở lại lâu vì như thế để chiến đấu với Việt Nam là không thể thắng. Nên 1 cuộc chiến ngắn ngày thần tốc như với Ấn Độ được Trung Quốc áp dụng ở Việt Nam. Sau này, có Tướng lĩnh Trung Quốc đã thú nhận đây là một “quyết định điên” khi tấn công Việt Nam.

Nhìn chung chúng ta thắng cả 2 cuộc chiến tranh biên giới trên nhưng chúng ta thiệt hại rất nặng nề về kinh tế về sự cấm vận. Trong bối cảnh đó chúng ta không còn cách nào khác, bởi kẻ thù đã buộc ta phải cầm súng. Mãi cho đến 25 năm sau, thế giới mới ghi nhận Việt Nam có công lớn giúp Campuchia hồi sinh và Polpot phạm tội diệt chủng. Thế mà họ đã cấm vận ta đến 30 năm trời.

Nếu kẻ hậu sinh mà chỉ ngồi trên xương máu của đồng bào và chiến sĩ đã hi sinh bảo vệ Tổ quốc, để võ đoán, phán xét, quy kết theo cảm tính chủ quan thì chỉ là những kẻ vô liêm sĩ, ăn cháo đá bát không hơn không kém. Thế hệ chúng ta cần tôn trọng những quyết định của lịch sử, vì chúng ta không thể thay đổi quá khứ. Chúng ta chỉ có thể thay đổi ở tương lai với một đất nước hùng cường và thịnh vượng để báo đáp tiền nhân!

Phạm Phú Thái/ Trung Hoàng

Bài mới
Đọc nhiều