Tầm quan trọng cơ bản của việc trị thủy
Tự ngàn xưa việc đê điều, trị thủy luôn được vua quan chú trọng. Cứ như Châu bản triều Nguyễn mà xét ngay sau khi vua Gia Long lên ngôi song song với việc ổn định tình hình chính trị, kinh tế ông rất quan tâm đến đê điều, trị thủy cho dân. Sau 1 năm lên nắm quyền hành vua Gia Long đã trực tiếp thị sát đê Hà Nội (Thăng Long xưa) xuất ngân khố 80.400 quan tiền phục vụ cho việc tu sửa và đắp đê mới.
“Thế nước sông Nhị Hà rất mạnh, đê bên tả, bên hữu ven sông thuộc Sơn Tây, Kinh Bắc, Sơn Nam Thượng nhiều chỗ vỡ lở, xin thuê dân sửa đắp đê chống lụt mùa thu. Lại thủ đạo nhiều nơi ứ tắc, xin hạ lệnh cho trấn tùy thế khơi vét” – Bề tôi khẩn khoản tâu sớ lên vua.
Năm 1803 vua ra lệnh sửa đê điều và đắp đê mới ngăn lũ, năm 1806 ra lệnh đắp mới hơn 1.500 trượng đê (1 trượng bằng 0,4m) dọc các vùng Thanh Trì, Gia Lâm, Văn Giang.
Năm 1809 vua Gia Long ban hành quy định yêu cầu các quan phủ, huyện, trấn phải định kỳ kiểm tra đê điều vào tháng 10 âm lịch. Chỗ nào cần sửa, cần đắp mới tâu lên vua, để khởi công hộ đê, đắp đê mới vào tháng Giêng, Hai cho đến tháng 4 năm đó là phải xong xuôi. Sở dĩ phải đắp, sửa đê trước khi vào vụ mùa của nông dân, khi vào vụ mùa là phải xong đê điều để đảm bảo hệ thống tưới tiêu thoát nước cho dân chúng.
Việt Nam vốn nước thuần nông, hệ thống sông ngòi dày đặc, con nước vừa là bạn vừa là thù, nhờ có các dòng sông mẹ bồi tụ lên nhiều vùng đồng bằng châu thổ màu mỡ, đất ăn dài ra biển. Tuy nhiên, con nước lúc lên lúc xuống nếu không chế ngự hậu quả khôn lường. Khi đồng bằng sông Cửu Long chưa được khai thác nhiều, đồng bằng Sông Hồng là trọng điểm kinh tế nông nghiệp của cả nước. Trị thủy, hộ đê chính là một cách ổn định kinh tế xã hội các triều phong kiến xưa nhận thấy. Vì ngày xưa hầu hết người Việt lấy nông nghiệp làm kế sinh nhai chính. Kinh tế nông nghiệp đã giúp sức rất nhiều trong công cuộc dựng nước và giữ nước qua các thời phong kiến.
Trong cuốc chiến chống quân Nguyên – Mông lịch sử của dân tộc, vùng đất Thiên Trường, Trường Yên nơi có dòng Nhị Hà chảy qua đã cung cấp biết bao lương thực, khí lực lập nên thiên sử năm 1285. Rồi khi chuẩn bị đưa đại quân đánh Chiêm thành vua Lê Thánh Tông đã có sắc chỉ riêng dành cho phủ Thiên Trường (Nam Định nay): “Phải trưng thu các hạng quân sắc, các viên sinh đồ mỗi người 15 ống gạo, hạng hoành đinh và người già mỗi người 12 ống gạo, bắt người đứng thu lại, đồ lên làm gạo chí, không để chậm ngày giờ đem nạp lên cho sứ ty. Quan phụ trách dựng làm nhà rạp, xét đúng thu vào rồi làm bản tâu lên. Ai dám thiếu trốn thì chém đầu”.
Nếu không chú trọng việc đê điều, trị thủy thì việc ổn định kinh tế – chính trị củng cố binh lực bảo về bờ cõi khó suôn sẻ.
Nhìn tích xưa mà xét chuyện nay, chuyên gia Nhật Bản – Tiến sĩ Tadashi Yamamura cùng UBND Thành phố Hà Nội đã thí điểm xử lý 1 đoạn sông Tô Lịch và một góc Hồ Tây. 9 giờ sáng ngày 16/9/2019 tại vị trí thí điểm xử lý nước bằng công nghệ bio-nano (Nano Bioreactor) chuyên gia môi trường Nhật Bản đã thả cá Koi (cá chép Nhật) và cá chép Việt Nam. Như vậy, nước sông đã qua xử lý phải đạt tiêu chuẩn cá mới sống được, nhất là loài cá chép kén nước, ưa sống môi trường nước sạch.
Dòng sông Tô trong huyền thoại ngày xưa gắn với đất Thăng Long đang có cơ hội hồi sinh.
Phía xa ngoại thành, đê Bùi huyện Chương Mỹ cũng đang được gấp rút hoàn thành. Bờ đê được kè kiên cố lại chống sạt lở với tổng chiều dài 1,3km. Trước đó, tháng 7/2018 mưa lớn gây lụt úng tại khu vực huyện Chương Mỹ, hơn 1000 ha lúa thiệt hại, gia súc bị chết nhiều, hàng ngàn hộ dân phải di dời tránh lụt.
Vấn đề trị thủy đang được đặt đúng vị trí và làm mạnh đúng với tầm quan trọng của nó. Nước sạch, sông chảy, vạn vật sinh sôi đời sống tự nhiên đi lên. Ao tù nước đọng khó có thể mong một cuộc sống khỏe mạnh, tươi sáng.
Hơn thế, trị thủy luôn giúp ổn định kinh tế – chính trị một cách cơ bản và căn cốt nhất với một nước đã từng thuần nông như Việt Nam.
Han Cao