Tại sao lý do vụ Mỹ ném bom đại sứ quán TQ năm 1999 lại được xới lên lúc này?
Ngay sau khi các nhà ngoại giao hàng đầu của Mỹ và Trung Quốc đối đầu nhau ở Alaska hồi cuối tháng 3, các bài viết gây chú ý bắt đầu xuất hiện trên mạng internet Trung Quốc.
“Tại sao đại sứ quán Trung Quốc ở Nam Tư bị tấn công bằng bom dẫn đường chính xác của Mỹ vào năm 1999?” là tiêu đề của một bài viết như vậy.
Hoa Kỳ luôn khẳng định rằng vụ ném bom 22 năm trước là một tai nạn và chiến dịch của NATO dự định ném bom một cơ sở gần đó của Nam Tư.
Nhưng những gì thực sự xảy ra đêm đó đã trở thành một chủ đề hấp dẫn đối với người dân Trung Quốc. Những thông tin như vậy được tiết lộ lúc này là một hiện tượng lạ, gần như có ai đó đang cố tình tiết lộ những bí mật đằng sau vụ việc.
Tháng 5/1999, đại sứ quán Trung Quốc bị tấn công bởi 5 quả bom dẫn đường chính xác phóng từ máy bay ném bom tàng hình B-2. Ba công dân Trung Quốc thiệt mạng và hơn 20 người bị thương. Vụ việc đã làm dấy lên làn sóng biểu tình chống Mỹ ở Bắc Kinh.
Bất chấp lời xin lỗi từ Tổng thống lúc bấy giờ là Bill Clinton, chính phủ Trung Quốc vẫn luôn khẳng định rằng đó không thể là một vụ không kích nhầm và quân đội Mỹ đã cố tình ném bom đại sứ quán Trung Quốc. Tuy nhiên, phía Trung Quốc chưa bao giờ đưa ra bất kỳ bằng chứng nào chứng minh đây là một cuộc tấn công có kế hoạch của Hoa Kỳ.
Các bài báo xuất hiện gần đây đi sâu vào vấn đề này. Các bài báo này gợi ý rằng lý do thực sự mà đại sứ quán Trung Quốc bị nhắm đến là sự tồn tại của các mảnh vỡ một máy bay chiến đấu tàng hình của Mỹ trong đại sứ quán.
Chỉ hơn một tháng trước khi xảy ra vụ ném bom, một máy bay chiến đấu tàng hình F-117 Nighthawk của Mỹ được điều động trong cuộc xung đột ở Kosovo đã bị bắn hạ bởi một tên lửa đất đối không do Nga sản xuất được phóng đi bởi quân đội Nam Tư do người Serbia chỉ huy.
Các mảnh vỡ nằm ngổn ngang trên đất ruộng, và một số bộ phận sau đó được trưng bày tại bảo tàng hàng không của Belgrade. Tuy nhiên, các đặc vụ Trung Quốc cũng đã lùng sục khắp khu vực, mua được các bộ phận của máy bay từ nông dân địa phương, Đô đốc Davor Domazet-Loso, khi đó là tham mưu trưởng quân đội ở nước láng giềng Croatia, đã nói như vậy với hãng thông tấn AP vào năm 2011.
F-117 Nighthawk là máy bay chiến đấu tàng hình đầu tiên trên thế giới, được phát triển bởi công ty hàng không vũ trụ Lockheed của Mỹ, nay là Lockheed Martin.
Với việc nghiên cứu bắt đầu từ những năm 1970, công nghệ của F-117 vào thời điểm vụ tai nạn xảy ra không còn thuộc dạng tối tân nữa. Nhưng đống đổ nát vẫn có giá trị làm tài liệu nghiên cứu và là tâm điểm chú ý của các quốc gia đối thủ.
“Chúng tôi tin rằng người Trung Quốc đã sử dụng những tài liệu đó để tìm hiểu sâu hơn về các công nghệ tàng hình và thiết kế ngược chúng”, Domazet-Loso nói với AP như vậy trong cuộc phỏng vấn.
Theo các bài báo gần đây của Trung Quốc, Trung Quốc đã yêu cầu chính phủ Nam Tư chia sẻ xác máy bay được thu hồi, và sau khi tham vấn, họ đã thành công trong việc có được hệ thống dẫn đường, phần thân chính tàng hình và các bộ phận ống phun động cơ chịu nhiệt.
Vì buộc phải bí mật, Trung Quốc rất khó vận chuyển các báu vật này về nước bằng đường biển hoặc đường không. Kết quả là Trung Quốc không còn lựa chọn nào khác ngoài việc tạm giữ chúng trong tầng hầm của đại sứ quán, các bài báo viết.
Quân đội Hoa Kỳ đã phát hiện ra các tín hiệu định vị đến từ đống đổ nát và nhận biết được vị trí dưới tầng hầm của nó.
Các bài báo kết luận rằng các máy bay ném bom B-2 đã được cử đi để chặn bí mật quân sự không rơi vào tay Trung Quốc.
Một trong những quả bom đã thực sự xuyên được đến tầng hầm nhưng không phát nổ, giúp đống đổ nát vẫn còn nguyên vẹn, theo lời kể của những bài báo này.
Sau đó, Trung Quốc đã dành 10 năm để nâng cấp công nghệ tàng hình và tiến hành nghiên cứu chuyên sâu về tên lửa dẫn đường bằng laser. Một bài viết của AP năm 2011 nói rằng công nghệ cho máy bay chiến đấu tàng hình J-20 của Trung Quốc có thể bắt nguồn từ chiếc máy bay F-117 bị bắn hạ.
Trong hai thập niên kể từ sau vụ ném bom đại sứ quán, Trung Quốc đã thu hẹp khoảng cách về sức mạnh quốc gia với Mỹ. Như cuộc gặp gần đây giữa các nhà ngoại giao hàng đầu của Trung Quốc và Hoa Kỳ cho thấy, Trung Quốc không cần phải sợ bất kỳ nước nào miễn là Trung Quốc có sức mạnh thực sự, các bài báo viết.
Đáng chú ý, các bài báo này không viết dứt khoát. Khi đề cập đến các sự kiện cốt lõi, chúng sử dụng các cách nói gián tiếp như “được cho là” hay “phân tích được ủng hộ rộng rãi nhất đang lưu hành trên internet.”
Điều đó có thể là do, nếu thật sự đại sứ quán đã giấu các thiết bị nhạy cảm trong tầng hầm, điều đặt tính mạng nhân viên đại sứ quán vào rủi ro, thì điều đó không tốt cho hình ảnh của Trung Quốc.
Quay lại năm 2011, Thời báo Hoàn cầu vốn có giọng điệu diều hâu của Trung Quốc đã phủ nhận giả thuyết ăn cắp công nghệ.
Như vậy, rất khó để xác định phần nào của các bài viết này là đúng sự thật và phần nào là suy đoán. Còn quá sớm để nói rằng các bài viết này đã tiết lộ sự thật về vụ việc năm 1999.
Nhưng sự thay đổi trong lập trường của Trung Quốc là đáng chú ý.
Tại Trung Quốc, các ý kiến trên mạng bị giám sát và kiểm duyệt chặt chẽ. Các nhà chức trách có thể xóa bất kỳ bài đăng trực tuyến nào mà họ thấy “bất tiện”. Nhưng các bài báo được đề cập không bị xóa, ngoại trừ một số phần. Vì vậy có thể nghĩ rằng chúng đã nhận được sự chấp thuận ngầm từ các nhà chức trách Trung Quốc.
Vậy tại sao các nhà chức trách Trung Quốc lại bật đèn xanh như vậy?
Đầu tiên, hầu hết người Trung Quốc đều tin rằng vụ ném bom đại sứ quán là có chủ ý. Việc tung “bằng chứng” cho lập luận đó càng làm nổi bật những tội lỗi trong quá khứ của người Mỹ và đoàn kết người dân đứng sau chính phủ Trung Quốc trong bối cảnh quan hệ song phương ngày càng xấu đi.
Thứ hai, các nhà chức trách Trung Quốc rõ ràng đang nêu bật sự tiến bộ theo cấp số nhân trong các công nghệ quân sự của nước này kể từ “sự sỉ nhục ở Belgrade”.
Cả hai kết quả này đều làm cho các bài báo trên có nội dung phù hợp trước thềm kỷ niệm 100 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc vào ngày 1 tháng 7.
Trong cuộc biểu tình chống Mỹ năm 1999, sinh viên Trung Quốc cầm biểu ngữ với các khẩu hiệu như “Đừng coi thường người Trung Quốc” và “Một lúc nào đó Trung Quốc sẽ trở thành quốc gia mạnh nhất thế giới”.
Lúc đó đây dường như chỉ là một giấc mơ viển vông, nhưng mục tiêu đó bây giờ đã nằm trong tầm tay Trung Quốc.
Trong một diễn biến liên quan, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình hôm thứ Sáu đã có bài phát biểu trước các nhà khoa học nổi tiếng trong nước tại Đại lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh.
Ông Tập nhấn mạnh sự cần thiết phải xây dựng Trung Quốc trở thành nước dẫn đầu về khoa học và công nghệ và đạt được “sự tự cường và tự chủ trong lĩnh vực khoa học công nghệ”.
Đối với Trung Quốc, các công nghệ quân sự là khía cạnh cốt lõi của lĩnh vực khoa học – công nghệ.
Trong bối cảnh có lo ngại về khả năng gián đoạn chuỗi cung ứng trong lĩnh vực công nghệ do đối đầu với Mỹ, Trung Quốc đang kêu gọi phát triển độc lập các sản phẩm công nghệ có thể giúp nước này tiến tới vị thế thống trị về công nghệ.
Trong kế hoạch dài hạn đến năm 2035, Trung Quốc tìm cách đuổi kịp Mỹ về mặt quân sự cũng như kinh tế.
Một ngày sau bài phát biểu của ông Tập, chương trình thời sự buổi tối của Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV) đã chiếu cảnh các máy bay chiến đấu tàng hình J-20 bay theo đội hình trong khi người dẫn chương trình thảo luận lời kêu gọi của ông Tập về “tự cường và tự chủ trong lĩnh vực khoa học công nghệ”.
CCTV coi J-20 như một nguồn tự hào dân tộc.
Hôm đó, Bộ trưởng Ngoại giao Serbia Nikola Selakovic đã gặp Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị tại Quý Dương, thành phố thủ phủ của tỉnh Quý Châu, Trung Quốc.
Quá ư là trùng hợp!
Tại cuộc họp báo chung với Selakovic, Vương Nghị cho biết hợp tác của Trung Quốc với các nước Trung và Đông Âu “tập trung vào hợp tác kinh tế và thương mại, không liên quan đến lĩnh vực quốc phòng và an ninh.”
Sự hợp tác của Trung Quốc với các nước Trung và Đông Âu “chưa bao giờ có ý định địa chiến lược, và [Trung Quốc] không có ý định tạo ra bất kỳ khu vực ảnh hưởng nào,” Vương nói.
Nhưng khi Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Ngụy Phượng Hòa thăm Serbia hồi tháng 3, ông và Tổng thống Serbia Aleksandar Vucic đã trao đổi quan điểm về hợp tác quân sự. Họ cùng nhau thị sát một cuộc diễn tập quân sự của các lực lượng vũ trang Serbia.
Trung Quốc và Serbia có mối liên hệ chặt chẽ về an ninh trong lịch sử. Đó là một mối quan hệ đã trở nên nổi bật do cuộc đối đầu Mỹ-Trung gần đây.
Bây giờ, sau 22 năm, vụ ném bom đại sứ quán không chỉ là một câu chuyện lịch sử đơn thuần mà còn là một yếu tố của quan hệ quốc tế phức tạp… và của chính nền chính trị trong nước Trung Quốc ngày nay.
Nguồn: Katsuji Nakazawa, “Analysis: Mystery of 1999 US stealth jet shootdown returns with twist”, Nikkei Asia, 03/06/2021.
Biên dịch: Phan Nguyên