Sự hoàn thiện của hiến pháp và pháp luật đã làm bớt đi những vụ oan sai
Thời gian qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của Đảng và Nhà nước, chất lượng hoạt động tư pháp không ngừng nâng lên, hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện, tuy nhiên tình trạng án oan sai vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đòi hỏi những biện pháp căn cơ, quyết liệt để hạn chế tình trạng này.
Những vụ án oan sai vẫn còn, nguyên nhân từ đâu?
Nhiều quyền con người đã được thể chế hóa sau 5 năm thi hành Hiến pháp 2013. Một trong những giá trị lớn có tính kế thừa, phát triển với những điểm sáng trong quy định của Hiến pháp năm 2013 là vấn đề bảo đảm, bảo vệ quyền con người. Sau 5 năm Hiến pháp có hiệu lực, giá trị này đã được thể chế hóa trong các văn bản luật và có sức lan tỏa trong cuộc sống.
Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã hoàn tất chi trả việc bồi thường oan sai cho ông Trần Văn Thêm ở huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh- người từng chịu án oan 40 năm vào tháng 6 năm nay. Mặc dù, nhận được khoản tiền bồi thường nhưng 40 năm qua, ông và người thân trong gia đình đã phải chịu cuộc sống tủi nhục trong định kiến và kỳ thị.
Tất cả các vụ án oan sai như vụ ông Trần Văn Thêm, vụ ông Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang, vụ ông Huỳnh Văn Nén ở Bình Thuận, vụ ông Lương Ngọc Phi ở Thái Bình… đều có điểm chung là sự mất mát to lớn trong quãng đời của những người bị hàm oan và gia đình của họ. Họ mất đi danh dự, mất sức khoẻ, mất hạnh phúc và mất niềm tin. Quyền con người, quyền công dân trong những trường hợp này bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Nguyên nhân dẫn đến án oan sai phần nhiều do trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, đạo đức của điều tra viên hạn chế, dẫn đến sự chủ quan trong quá trình điều tra; khởi tố, truy tố khi chưa đủ cơ sở buộc tội; chưa bảo đảm nguyên tắc “suy đoán vô tội”, hồ sơ vụ án mang nặng tính buộc tội.
Cách làm việc thiếu chuyên nghiệp của cơ quan tố tụng, chưa thật sự phối hợp chặt chẽ, quyết liệt trong việc phát hiện oan sai, các cơ quan chưa thực hiện tốt chức năng giám sát lẫn nhau trong quá trình điều tra, xét xử. Ngoài ra, bệnh thành tích cũng như áp lực “chỉ tiêu” số vụ án được khởi tố, truy tố và xét xử của các cơ quan tố tụng cũng một phần dẫn đến oan sai.
Tình trạng “hình sự hóa dân sự” xảy ra ở nhiều địa phương, tiêu biểu là vụ án quán cà-phê Xin Chào xảy ra tại huyện Bình Chánh (TP Hồ Chí Minh) vào năm 2016. Còn tồn tại tình trạng bức cung, nhục hình, ép cung, mớm cung. Trong khi đó, hệ thống pháp luật và việc thực thi pháp luật ở nước ta vẫn có những bất cập. Nhiều quy định chưa đầy đủ, chặt chẽ và hoàn thiện dẫn đến bỏ lọt tội phạm và gây oan sai.
Đã bớt đi những vụ án oan sai sau 5 năm thực hiện hiến pháp mới
Để bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, Hiến pháp năm 2013 có những điểm mới trong những quy định chung và trong hoạt động tư pháp nói riêng. Hiến pháp năm 2013 và những luật về tố tụng, thể chế hóa Hiến pháp đã quy định cụ thể hóa các cơ chế để bảo đảm, bảo vệ quyền con người trong hoạt động tư pháp. Thế nhưng, luật sư Nguyễn Thế Truyền, Đoàn luật sư TP.Hà Nội nhận định việc thực hiện các quy định đó tiến bộ trong thực tế còn nhiều vướng mắc, khó khăn.
Việc bảo vệ quyền con người, quyền thân nhân liên quan đến Hiến pháp cũng như thực thi công vụ trong các hoạt động tư pháp đã tốt hơn rất nhiều. Tuy nhiên, trong trường hợp cụ thể như cấp giấy để đăng ký bào chữa, quy trình tạo điều kiện cho luật sư hay trợ giúp viên pháp lý, luật gia vào gặp, làm việc với thân chủ của mình đang có những thủ tục chồng chéo, gây khó khăn cho việc tiếp cận công việc của những người tham gia tiến hành tố tụng.
Theo Chủ nhiệm Uỷ ban Tư pháp của Quốc hội Lê Thị Nga, hệ thống luật trong lĩnh vực tư pháp, cụ thể hoá những quy định của Hiến pháp 2013 khá đầy đủ nhưng trong tổ chức thực hiện còn nhiều hạn chế. Ví dụ như quyền ghi âm, ghi hình, trách nhiệm ghi âm, ghi hình trong hoạt động hỏi cung bị can khó thi hành vì không có tiền để xây dựng các phòng ghi âm, mua máy ghi âm, thiết bị ghi hình. Đó là điều kiện rất quan trọng để tránh bức cung, nhục hình.
Bà Nga cho rằng, hệ thống các cơ quan tư pháp có tác động rất lớn đến đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp song kinh phí thiếu, chế độ chính sách không có đặc thù và xếp các cơ quan tư pháp, chức danh tư pháp tương đương với công chức hành chính. Đó là những hạn chế cần khắc phục.
Mặc dù những người phải gánh chịu oan sai đã trở về với gia đình, cộng đồng, nhưng Nhà nước đã phải bồi thường số tiền rất lớn cho sai phạm của một vài cá nhân. Những người có trách nhiệm liên quan đã bị xử lý, nhưng những vụ án oan sai đã ảnh hưởng nghiêm trọng về tinh thần, thể chất, uy tín của người bị kết án, gia đình và tạo nên sự bức xúc trong dư luận xã hội. Vì thế, việc ngăn chặn, phát hiện sớm các vụ án oan sai là trách nhiệm lớn của các cơ quan tố tụng.
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 hay Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 17-3-2003 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra đều là những văn bản quan trọng, thể hiện sự quyết tâm của hệ thống chính trị trong việc ngăn ngừa, hạn chế oan sai trong tố tụng hình sự.
Tuy nhiên, trước tình hình tội phạm gia tăng, xuất hiện thêm nhiều loại tội phạm mới, đặt ra yêu cầu tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật liên quan, tránh hiện tượng “bẻ luật”, áp dụng luật sai tội danh, kết án oan.
Cần nâng cao vai trò, trách nhiệm của luật sư trong quá trình tham gia tố tụng bởi đây là đội ngũ chính trong việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Các cơ quan đại diện cho người dân như Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp cần nhanh chóng vào cuộc, bảo vệ lợi ích công dân khi phát hiện dấu hiệu oan sai.
Quan trọng là cần nâng cao năng lực, chuyên môn, nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức của cán bộ tư pháp, nhất là những người tham gia tiến hành tố tụng, có biện pháp xử lý nghiêm những cán bộ để xảy ra oan sai. Điều tra viên phải áp dụng triệt để nguyên tắc “suy đoán vô tội”, bởi theo Điều 31, Hiến pháp năm 2013:
“Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”, tức là trước khi bản án của tòa án có hiệu lực pháp luật thì các bị can, bị cáo đều được coi là không có tội.
Phạm Minh Hà