Phó Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam: Chúng tôi đang thực hiện lời thề giữ biển
Phương án đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo ngày hôm nay, đã luôn được chúng tôi chuẩn bị chu đáo từ những bài học kinh nghiệm đánh đổi bằng mồ hôi, trí tuệ và cả máu của đồng đội mình.
Nhìn vào những con số này, nhiều người có thể giật mình. Nhưng nếu một bác sĩ cấp cứu, cứ gặp diễn biến bệnh tình xấu, nguy cấp, mà trở nên lo lắng, hấp tấp… thì làm sao có thể cứu và giành bệnh nhân từ tay thần chết trở về?
Chúng tôi lại càng không được phép làm việc với những cảm tính kiểu như sốt ruột hay bức xúc. Trước hàng nghìn trường hợp xâm phạm trái phép vùng biển đất nước, chúng tôi phải kiên quyết, mưu trí và rất bình tĩnh để đấu tranh, xử lý hiệu quả. Đặc biệt là với những đối tượng đang lăm le xâm phạm chủ quyền biển đảo Tổ quốc.
Đó là những chia sẻ đầu tiên mà Thiếu tướng Bùi Trung Dũng – Phó Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam dành cho phóng viên Trí Thức Trẻ trong cuộc trò chuyện kéo dài gần 5 giờ đồng hồ. Những điểm nóng ở bất kỳ đâu trên vùng biển Việt Nam, đều luôn có những cái đầu lạnh, những trái tim nhiệt huyết, những chiến sĩ tinh nhuệ trực diện đấu tranh và bảo vệ. Qua câu chuyện mà ông chia sẻ, chúng tôi vững tin hơn về một chiến lược trí tuệ, kiên quyết và nhất quán bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Giữ biển: Lòng dân phải chắc, thuyền dân phải mạnh và kiến thức của dân phải lớn
Việt Nam là một quốc gia biển, có đến gần 850.000 lao động trực tiếp trên biển và hàng triệu lao động dịch vụ trên bờ. Điều đó nói lên rằng, dù các lực lượng bảo vệ biển, lực lượng chấp pháp có nỗ lực đến đâu, thì vai trò của mỗi một người dân Việt Nam, của mỗi một ngư dân Việt Nam trong công cuộc bảo vệ chủ quyền, an ninh trật tự, an toàn trên các vùng biển, đảo của Tổ quốc vẫn là vô cùng quan trọng. Muốn giữ được biển của đất nước mình, chúng tôi vẫn nhắc nhở nhau rằng, chỉ có một cách đúng đắn nhất là sát cánh cùng ngư dân bám biển.
Các cụ ngày xưa có câu:
“Điền tư ngư chung
Ai khéo vẫy vùng thì mới thành của riêng”.
Có thể hiểu, đất đai, ruộng vườn hay thậm chí là biên giới lãnh thổ trên đất liền dù khó đến mấy, cũng có thể phân định, đo đạc để chốt hạ quyền sở hữu riêng có; nhưng biển lại khác. Ngư trường ở biển mênh mông vốn khó phân định, nên không cẩn thận dễ bị xâm phạm, biến thành của chung. Để giải quyết được vấn đề này, “khéo vẫy vùng” đồng nghĩa với việc ta phải có một chiến lược hết sức trí tuệ trong suốt quá trình bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Trong kho tàng văn hóa dân gian, ta thấy, tổ tiên người Việt rất sớm đã thể hiện năng lực khai phá và làm chủ biển khơi. Những câu chuyện như Mai An Tiêm là ví dụ về khát vọng khai phá Biển Đông, tạo lập chủ quyền của cha ông. Ngày nay, mỗi một ngư dân chắc dạ bám biển, chính là một Mai An Tiêm mở cõi và xác nhận chủ quyền.
Nguyện vọng chính đáng đó, luôn được chúng tôi hỗ trợ, đồng hành và tiếp sức. Mỗi khi ngư dân có nguy cơ đối diện với rủi ro, chúng tôi luôn có mặt, đảm bảo an toàn cho tàu thuyền Việt Nam hoạt động trên vùng biển của Việt Nam.
Đó chính là cách chúng tôi xây dựng và giữ gìn thế trận lòng dân vững chắc. Một khi, lòng dân đã chắc, cách tốt nhất để cùng người dân hiện thực hóa giấc mơ giữ biển quê hương, đó là, cùng nhau, chúng tôi góp phần đưa đội thuyền của ngư dân trở nên mạnh mẽ, hiện đại hơn giữa Biển Đông.
Năm 2010, ông Huỳnh Văn ở Tam Quang, Núi Thành, Quảng Nam với chiếc thuyền đánh cá tương đối thô sơ, đã không thể nghĩ rằng mình lại có thể may mắn trở về nhà an toàn sau khi gặp bão lớn ngoài biển.
“Gió bão cấp 12, giật trên cấp 12 mà các anh ấy vẫn đưa rước con tàu, lai dắt chúng tôi vô bờ. Hồi đó, toàn bộ ngư dân Quảng Nam này và cả các tỉnh bạn đều rất khâm phục các đơn vị của Cảnh sát biển vì đơn vị quá hùng mạnh, lại kiên cường trước bão tố. Đúng là hôm đó, nếu chỉ chậm ít giờ nữa thì toàn bộ 11 ngư dân trên tàu sẽ có thể không bao giờ tìm thấy xác. Các anh cảnh sát biển chính là người đã sinh ra chúng tôi lần thứ hai. Nói thật, đúng là chết đi sống lại”, ông Văn nhớ lại.
Sau chuyến đi sinh tử ấy, ông Văn vẫn tiếp tục nghề biển. Tàu của ông đã ra được vùng biển xa hơn, đã về với những mẻ cá lớn hơn trước rất nhiều. Vậy là ngư dân Việt Nam vừa giữ được nghề truyền thống, phát triển kinh tế gia đình, vừa giữ gìn được biển đảo của ông cha đã có từ nghìn đời.
Nhưng với bà con đi biển, chỉ tình yêu và sức mạnh thôi là chưa đủ. Bối cảnh hội nhập hôm nay đòi hỏi ngư dân phải được trang bị thêm kiến thức, luật pháp không chỉ của riêng Việt Nam.
Thực trạng trong những năm vừa qua, Cảnh sát biển cũng là một trong những cơ quan vừa bảo hộ cho người dân, vừa phải tuyên truyền, giáo dục ngư dân mình chấm dứt đánh bắt trái phép ở các vùng biển nước ngoài.
Tất cả chúng ta đều kỳ vọng rằng, vào tháng 11 này, khi đại diện của Uỷ ban châu Âu sang Việt Nam kiểm tra, ngư dân mình đã hiểu ra vấn đề và có được quy trình khai thác thủy hải sản một cách bền vững. Kỳ vọng được xóa thẻ vàng dựa hết vào chính sự giáo dục, vào hệ thống quy định của pháp luật sẽ được ngư dân nắm rõ và thực hiện nghiêm túc. Vì vậy, đây chính là thời gian mà ngư dân Việt Nam muốn giữ biển thì bắt buộc phải học luật và làm đúng luật. Chúng tôi đang tích cực phối hợp cùng các cơ quan chức năng như Bộ NN&PTNT, Biên phòng, Công an, chính quyền các địa phương để hướng dẫn và tập huấn cho ngư dân mỗi ngày.
Giải quyết được tồn tại này, chúng ta, thứ nhất sẽ có thể góp phần củng cố mối quan hệ với các nước láng giềng có vùng biển chung với Việt Nam, mà không ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại của mình. Thứ hai, từ đó, giữ được hòa bình, ổn định trên các vùng biển của Việt Nam. Nếu không, chỉ từ vấn đề tưởng nhỏ như đánh bắt hải sản của người dân, rất có thể sẽ ảnh hưởng lớn đến chính sách cụ thể của các quốc gia láng giềng đối với mình. Và thậm chí là cả mối quan hệ đối ngoại giữa Việt Nam với các quốc gia có biên giới biển. Đó một là một lưu ý hết sức quan trọng.
Giữ biển: Phải hiểu luật biển
Cảnh sát biển vừa phải vững kiến thức về hàng hải, về biển, về các phương tiện, trang thiết bị chuyên dụng của một lực lượng vũ trang trên biển; vừa phải chắc kiến thức về pháp luật nói chung, luật pháp biển Việt Nam và thậm chí là luật pháp biển quốc tế và của từng nước có liên quan; rồi cả nghiệp vụ đấu tranh chống tội phạm ở trên biển… Một người cảnh sát viên tùy thuộc ở từng đơn vị cụ thể, vị trí công việc cụ thể, có thể đòi hỏi sẽ cần phải nắm vững ít nhất hơn 10 bộ văn bản luật về biển hoặc là luật pháp về biển. Để hoàn thành tốt những nhiệm vụ chính trên, chất lượng công tác huấn luyện của lực lượng Cảnh sát biển phải đạt được mục tiêu “Nghiệp vụ tinh thông – Kỷ luật nghiêm minh – Phẩm chất chính trị vững vàng – Sức khỏe dẻo dai”.
Luật pháp, quy định và cách hiểu, diễn giải luật hay chế tài xử lý ở mỗi quốc gia lại rất khác nhau. Ví dụ, cùng là một hành vi vi phạm vùng biển, đánh bắt cá trái phép, đối với Việt Nam chế tài xử lý theo hướng đầu tiên là tuyên truyền giáo dục, đến nhắc nhở, rồi ghi số hiệu cảnh cáo và đẩy về quốc gia liên quan, trao đổi công hàm với các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền. Nhưng ở Nhật, đối tượng vi phạm sẽ bị phạt tiền. Nếu ở mức độ nặng hơn, họ có thể khởi tố điều tra. Luật pháp của Indonesia cũng hướng đến hình sự hóa các hành vi đánh bắt trái phép và rất dễ bị xử tù cho tội danh này.
Trong bối cảnh hoạt động hàng hải, hoạt động kinh tế biển đang phát triển nhanh chóng, không chỉ là độc quyền của quốc gia ven biển mà còn mang tính khu vực và toàn cầu, để xây dựng vùng biển hòa bình, hữu nghị và phát triển, Cảnh sát biển Việt Nam xác định cần tăng cường hợp tác với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Trên thực tế, Cảnh sát biển Việt Nam đã và đang duy trì trung tâm chia sẻ thông tin với lực lượng thực thi pháp luật của 20 quốc gia, thiết lập đường dây nóng với 7 quốc gia liên quan đến Biển Đông. Chúng tôi cũng đã ký kết Biên bản ghi nhớ hiểu biết lẫn nhau về hợp tác với lực lượng Bảo vệ bờ biển Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Ấn Độ, Nhật Bản… Đây là những lực lượng có năng lực thực tế và bề dày kinh nghiệm thực thi pháp luật trên biển. Trong các văn bản hợp tác đã ký, các bên đều coi trọng nhiệm vụ chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm, phối hợp phòng chống tội phạm xuyên quốc gia, tìm kiếm cứu nạn.
Trong quá trình tham gia các hoạt động đa phương, Cảnh sát biển Việt Nam luôn được đánh giá là thành viên tích cực, có trách nhiệm.
Vị thế và năng lực của Cảnh sát biển Việt Nam đã được quốc tế đánh giá cao sau những sự kiện như Cảnh sát biển Việt Nam khống chế thành công 11 tên cướp khi chúng cướp tàu Zafirah mang quốc tịch Malaysia và điều khiển tàu vào khu vực biển Việt Nam vào tháng 11/2012.
Tiếp theo đó, vào tháng 6/2015, Cảnh sát biển Việt Nam đã phối hợp với Cơ quan Thực thi pháp luật trên biển Malaysia truy tìm tàu Orkim Harmony mang quốc tịch Malaysia bị cướp có vũ trang tấn công và di chuyển vào vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam. Kết quả là 8 tên cướp đã phải rời tàu bỏ trốn và bị các cơ quan chức năng Việt Nam bắt giữ.
Đây là những vụ việc tiêu biểu cho sự phối hợp quốc tế trong đấu tranh chống cướp biển trong khu vực. Nó cũng thể hiện sự mưu trí, sáng tạo, tinh thần đấu tranh không khoan nhượng của Cảnh sát biển Việt Nam với tội phạm có tổ chức. Các vụ việc này đã được các tổ chức như ReCAAP, HACGAM ghi nhận và lấy làm bài học kinh nghiệm cho lực lượng thực thi pháp luật trên biển quốc tế.
Với Trung Quốc, cũng như các quốc gia láng giềng khác, Việt Nam luôn mong muốn duy trì mối quan hệ hòa bình, hữu nghị và phát triển, đảm bảo toàn vẹn chủ quyền và lợi ích hợp pháp của ngư dân Việt Nam.
Có một lưu ý rằng khi chúng ta càng gặp phải những sự vụ phức tạp trên biển, muốn giải quyết được vấn đề, chúng ta phải rất hiểu biết phía bên kia, hiểu biết mình và luôn có phương án chủ động từ rất, rất sớm. Newton đã từng nói: “Nêu rõ quan điểm mà không tạo kẻ thù, đòi hỏi đến cả trí tuệ ứng xử”.
Giữ biển: Bằng pháp luật và tình yêu
Riêng năm 2018, Cảnh sát biển Việt Nam đã phát hiện 4.960 lần/chiếc tàu nước ngoài vi phạm vùng biển Việt Nam (tăng 461 lượt/chiếc so với cùng kỳ năm 2017); nắm, phối hợp xác minh, báo cáo 303 vụ/815 tàu cá Việt Nam bị lực lượng chức năng nước ngoài xua đuổi, bắt giữ, xử lý theo pháp luật của nước sở tại; phát hiện, bắt giữ, xử lý 549 vụ lớn/825 đối tượng vi phạm pháp luật. Tổng số tiền xử phạt vi phạm hành chính và giá trị hàng hóa vi phạm ước đạt 400 tỷ đồng nộp ngân sách Nhà nước.
Điều đó cho thấy, trong mọi nhiệm vụ của mình, Cảnh sát biển Việt Nam luôn lấy pháp luật làm đầu, với trọn vẹn tinh thần thượng tôn pháp luật, bảo vệ và thực thi pháp luật.
Đấu tranh ở ngoài thực địa, chưa một lần chúng tôi, những người cảnh sát biển nao núng tinh thần hay chùn bước trước hiểm nguy. Bởi chúng tôi biết, sau lưng mình, luật pháp, Tổ quốc, nhân dân luôn ủng hộ, dõi theo và kỳ vọng vào chúng tôi!
Trong những năm tới tình hình Biển Đông sẽ còn có những diễn biến phức tạp. Đặc biệt vấn đề tranh chấp chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển luôn có nguy cơ bị đẩy thành xung đột. Thêm vào đó, tình hình khu vực và thế giới diễn biến nhanh chóng, khó lường, xuất hiện nhiều nhân tố mới có tác động sâu sắc đến trật tự và cục diện thế giới, tác động trực tiếp đến tình hình ở khu vực Biển Đông. Nhiệm vụ đặt ra cho lực lượng cảnh sát biển sẽ hết sức nặng nề.
Nhìn lại các sự vụ nhóm tàu nước ngoài vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam trong quá khứ để thấy được bài học kinh nghiệm trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo. Việc giàn khoan Hải Dương 981 hạ đặt trái phép trong vùng biển Việt Nam năm 2014 không đơn thuần chỉ là một hành động xâm phạm đơn lẻ, mà còn đi kèm nhiều kế hoạch phức tạp đằng sau. Chúng ta cần nêu cao tinh thần cảnh giác, không thể xem thường.
Phương án đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo ngày hôm nay, đã luôn được chúng tôi chuẩn bị chu đáo từ những bài học kinh nghiệm đánh đổi bằng mồ hôi, trí tuệ và cả máu của đồng đội mình.
Ngay tại thực địa, xử trí bình tĩnh, khôn khéo với phương châm dĩ bất biến, ứng vạn biến lại là giải pháp cần thiết nhất. Điều bất biến là kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền biển đảo; ứng với vạn biến sẽ là các phương pháp mềm dẻo, linh hoạt đúng quy phạm luật pháp quốc tế, pháp luật Việt Nam và các thỏa thuận khu vực, tuyệt đối không để mắc mưu khiêu khích của đối phương và là cái cớ để các thế lực thù địch lợi dụng tuyên truyền, kích động. Đặc biệt tuân thủ sự chỉ đạo của Thủ trưởng cấp trên, phải hết sức kiềm chế, không được manh động, cảm tính vô tổ chức có thể dẫn đến từ yếu tố chiến thuật gây nên những vấn đề chiến lược.
Một trong những yếu tố tối quan trọng giúp bảo vệ toàn vẹn chủ quyền biển đảo của đất nước chính là phát huy sức mạnh từ khối đại đoàn kết dân tộc. Hơn lúc nào hết, hơn 96 triệu người dân Việt Nam cần trên dưới một lòng. Sức mạnh đó, là không gì xâm phạm nổi. Là sức mạnh vô song để kết hợp với sự đồng tình ủng hộ của khu vực, quốc tế về việc làm chính nghĩa của Việt Nam.
Chúng ta, chỉ cần đoàn kết, thể hiện lập trường chính nghĩa rõ ràng của Việt Nam, là những người ở thực địa đã được tiếp thêm sức mạnh tuyệt vời.
Lúc này đây, tôi nhớ đến bố mình, một vị tướng quân đội cả đời trận mạc.
Tôi đã từng viết ca khúc “Câu hát tặng Cha” mang tình cảm và thông điệp gửi đến lớp cha, anh: Hãy tin ở thế hệ chúng tôi, nguyện noi gương và phát huy truyền thống của bao lớp người đi trước, luôn vững vàng chắc tay súng bảo vệ Tổ quốc yêu thương:
“Chiếc áo lính vẫn vương mùi thuốc súng,
Chiếc ba lô xinh nay đã bạc màu,
Cha trao cho ngày con vào quân ngũ
Con vẫn mang theo suốt dọc đường hành quân…”
Hành trang để một người lính ra chiến trường, đối đầu với hiểm nguy, thực chất luôn là sức mạnh từ trái tim. Tôi và các đồng đội đã sống, chiến đấu và bảo vệ biển đảo quê hương bằng chính niềm tin từ cha ông mình để lại.
“Ngày xưa cha đi đánh giặc
Con còn bé bỏng trong nôi.
Hôm nay con là người lính,
Cha về tuổi già thảnh thơi…”
Thế hệ chúng tôi, nguyện sẽ kế tục xứng đáng những chiến công mà thế hệ trước đã không tiếc máu xương để gìn giữ và trao lại./.
(Theo Soha News)