Phần 1: 1.000 ngày sống cảnh nô lệ xứ người của cô gái 18 tuổi
1.000 ngày sang Nga theo diện “hợp đồng đen” với cô gái chưa tròn 18 tuổi, đó là 1.000 ngày của những cuộc chạy trốn chết chóc, nước mắt, máu và ám ảnh khôn nguôi.
Huyên không nhớ mình đã bao lần suýt chết trong tuyết, sống chung cùng đống phân bò nhầy nhụa, vùng lên rồi giẫy giụa trong những cái lò “địa ngục” – nơi người Việt phải sống chui rúc như loài gặm nhấm, sẵn sàng bị đánh đập, đày đoạ và buộc phải tự vẫn.
Với Huyên, 3 năm ấy, cô gần như mất đi tất cả
***
Anh Vinh chạy trước. Tôi chạy sau. Rồi tới chị Hường, chị Vân, Toàn. 5 chúng tôi cứ cắm đầu, gằm mặt chạy như một lũ chuột nhắt. Bên ngoài, tiếng búa tạ đập vào bức tường buốt óc, những gọng súng bắn chỉ thiên nổ tung như những đốm pháo hoa. Chúng tôi chạy, nắm tay nhau chạy, trốn chui trốn lủi bằng chút sức lực còn sót lại từ những củ khoai tây luộc hôm qua.
Mùa hè Mát-xcơ-va ngày như đêm, sáng trưng.
“1…2…3… Bước lên vai anh, trèo qua tường. Nhanh”. “1…2…3… Nhảy đi”, “1…2…3… Nắm chắc tay không được trôi xuống sông đấy nhé!”, “1…2…3…trèo lên xe”, “1…2…3… Phải sống nhé Huyên”. Lần đầu, sự tự do lấp đầy phổi tôi.
Sau này, mỗi khi nghĩ về ngày đó, tôi chẳng thể lý giải được tại sao một cô gái bé nhỏ, cao 1m45, nặng 39 ký như tôi lại gan dạ đến vậy! Nhưng tôi biết, lúc đó, nếu bị bắt, chúng tôi chỉ có chết.
Tôi quay lại nhìn chị Hai dáo dác bên trong cái “ổ địa ngục” quỷ quái đó. “Em sẽ quay lại với chị” – tôi rơi nước mắt rồi cúi đầu chạy.
Chúng tôi không ai biết ngày mai sẽ ở đâu? Ăn gì? Làm gì? Còn sống hay sẽ chết? Một chữ Nga bẻ đôi chúng tôi cũng không biết. Đường về Việt Nam quá xa xôi. Nhưng chúng tôi cứ chạy trước đã. Tôi, anh Vinh, chị Hường, chị Vân, Toàn,… mỉm cười nghĩ mình đã bước qua cánh cửa địa ngục.
Nhưng hôm sau, một cánh cửa địa ngục khác lại mở ra. Độc ác hơn. Tàn nhẫn hơn…
CON ĐI NGA, KIẾM ĐỦ TIỀN XÂY NHÀ CHO BA MÁ RỒI CON VỀ
Nhiều tháng sau khi trở về, nước mắt tôi vẫn tự nhiên chảy khi ai đó nhắc về Nga. Cái Tết đầu tiên, vừa bước chân ra khỏi nhà, nghe tiếng còi cảnh sát giao thông dẹp đường kêu lên inh ỏi, tôi bỏ chạy một mạch trong sự ngơ ngác của ba má.
Sợ hãi đã trở thành bản năng của tôi mất rồi!
Một đêm, trong lúc nằm ngủ, tôi mơ màng thấy mình đang đi trong tuyết. Tuyệt vọng. Sợ hãi. Lạnh lẽo. Những bông tuyết trắng xoá bắt đầu đỏ máu, dần dần phủ kín thân thể tôi. Tôi oà lên khóc. Mở mắt ra, mẹ đã nằm cạnh, ôm tôi, khuôn mặt ướt nhoè đi từ lúc nào. Tôi phải cố gằn lòng lắm mới không để đám ký ức quỷ quái ấy trồi dậy thêm bất kì lần nào nữa.
Cuối năm cấp 3, chú Tám hàng xóm sang nhà, ngồi uống chén trà rồi nói chuyện với ba tôi: “Cho con Huyên đi xuất khẩu đi anh. Qua đó làm nhiều tiền, về phụ gia đình.”
Ở xóm tôi, hồi ấy, gần như gia đình nào cũng có người thân ra nước ngoài xuất khẩu lao động. Người trước đi giới thiệu người sau. Vợ đi kéo theo chồng. Anh trai đi cùng với em gái. Có nhà hết thảy 3-4 đứa con đều đã ra nước ngoài. Tết đến, ba má họ ngồi buồn hiu đón Tết cùng con qua màn hình điện thoại.
“Nhà tôi không có tiền cho cháu đi đâu chú ạ!”
“Cần gì phải bảo lãnh tiền. Đi Nga đi. 2 thằng con tôi đều đi Nga cả. Bên đó, chi phí thấp, môi giới rẻ, siêng siêng xíu mỗi tháng dư hơn 5 tờ (500 đôla-PV) gửi về xây nhà…” – chú Tám thuyết phục ba má tôi vào dịp tết năm 2014.
Tối đó, tôi nằm trằn trọc mãi không thôi. Hết hè này, tôi sẽ tốt nghiệp cấp 3. Tôi biết sức học của mình tới đâu, cố gắng lắm cũng chỉ đậu cao đẳng. Đi làm công nhân ở xí nghiệp thì lương tháng 6-7 triệu, đủ ăn đủ mặc nhưng không đủ xoay sở cho ba má được mái nhà đường hoàng.
Sáng hôm sau, trước khi tới trường, tôi nói vội với ba: “Chờ con tốt nghiệp xong, con đi Nga. Kiếm đủ tiền xây cái nhà đường hoàng cho ba má rồi con về…”. Ba má ậm ừ, nửa mừng nửa vui.
Đêm ấy, tôi nhắn tin cho anh: “Em đi vài năm, anh ở nhà chờ em nhé!”. Anh gọi lại ngay lập tức, qua điện thoại, anh khóc mướt 5, 6 tiếng đồng hồ không thôi.
Tháng 9/2014, bạn bè tôi lần lượt vào Sài Gòn đi học. Tôi ở lại quê cùng chị Hai và ba má, làm lụng để kiếm đủ 30 triệu chồng tiền cho bà mối. Lần đầu tiên gặp mặt, bà mối nhìn tôi và chị Hai một lượt rồi cười mỉm: “Qua đó thì lắm tiền”. Cuối buổi, bà cầm phong bì 30 triệu thong dong ra về.
Nhiều đêm, nằm ngẫm nghĩ: “Sao ra nước ngoài dễ vậy?”, “một chữ Nga bẻ đôi cũng không biết”, “tay nghề không có thì làm gì?”. Tôi gọi điện hỏi bà mối, thì bà lại hạ giọng, ngọt như mía lùi: “Ối giời, qua đó học mấy hồi. Để đó cô lo”. Rút lại không đi nữa thì 30 triệu mất trắng, tôi dằn lòng: “Đi vài năm, kiếm đủ tiền xây nhà cho ba má rồi con về”.
Lần thứ 2 gặp, bà mối đứng trước cửa sân bay Phù Cát (Bình Định), tách đôi tay 2 chị em tôi và tay ba, “Anh chị cứ yên tâm, con bé từ nay để em lo”, rồi dắt tôi qua cánh cửa tự động, nước mắt ngắn dài tôi chào tạm biệt ba má.
Lần thứ 3 gặp, bà mối đưa cho tôi một sấp giấy tờ, một cái tên giả tại Hà Nội rồi mất hút. Tên bà, tuổi bà, nhà bà ở đâu, tôi không hề biết. Đêm đầu tiên trước khi sang Nga, tôi ở cùng phòng trọ với 20 người Việt khác, chẳng ai thân quen. Cả đêm, tôi ôm chị Hai, khóc hết nước mắt vì nhớ nhà.
Sáng hôm sau, chiếc máy bay chở 20 người chúng tôi bay thẳng sang Nga với đầy sự háo hức trông chờ. Chẳng ai nghĩ, chỉ vài tiếng nữa, Mát-xcơ-va, lại là “cánh cửa địa ngục” với chúng tôi.
CHÚNG TÔI SỐNG NHƯ NHỮNG CON THÚ TRONG LỒNG
Chúng tôi rớt xuống Nga thì trời đã tối đen như mực. Chẳng biết ngày hay đêm. Đói. Lạnh.
Ngoài sân bay, một chiếc xe hộp đứng đợi sẵn, tài xế người Việt xuống mở cửa, quát: “Nhanh… Nhanh lên…”, rồi lùa vội 20 người chúng tôi lên. Tôi nhỏ nhất, ngồi lọt thỏm giữa đám.
Nước Nga với tôi lúc ấy đẹp tuyệt trần. Những toà nhà cổ kính lấp lánh ánh đèn chọc lên bầu trời như những viên pha lê. Đường phố đông nghịt. Người Nga cao ráo, to bự, so với tụi tôi chẳng khác gì kẻ khổng lồ với đám trẻ tí hon. Ai nấy choàng 3-4 lớp áo lông đi lạch bạch trên đường như những chú chim cánh cụt sặc sỡ.
Trên trời, bông tuyết trắng xoá cứ xoay vòng, xoay vòng rồi là là đậu trên những toà tháp như phủ lên đó một lớp kem. Bông tuyết nhẹ nhàng, êm ái lần đầu tiên chúng tôi được thấy nhanh chóng thành liều thuốc khiến ai nấy lấy lại phấn chấn.
Tôi với tay ra ngoài cửa xe, hứng tuyết và nghĩ về viễn cảnh tươi đẹp. “Được đi làm ở cái thành phố nhộn nhịp này, bên trong một vài toà nhà đẹp đẽ, mỗi tối đi ngắm tuyết rơi mà vẫn dư dả 500 đôla gửi về Việt Nam” – tôi mơ, rồi nằm thiếp đi bên khung cửa sổ. Rét run.
Chiếc xe đưa chúng tôi đi xa dần, xa dần thành phố. Qua những đoạn đường gồ ghề, cả bọn đều bị sốc lên cao rồi nảy xuống. Tỉnh cả ngủ. Mở mắt ra, những toà nhà ban nãy đã biến mất từ lúc nào, tuyết rơi dày và lạnh hơn gấp bội khiến giấc mơ của tôi sụp đổ. Tôi cứ nhắm mắt, cầu mong chiếc xe sẽ dừng lại khi nó vừa đi qua một khu chợ nào đó.
Chiếc xe cuối cùng cũng tắt máy rồi dừng hẳn. “Nhanh lên… Nhanh lên… Tụi bay chậm chạp quá”, người tài xế lại bắt đầu quát rồi lùa tất cả chúng tôi vào một cái cổng bé xíu. Mặt ai cũng đanh lại, một sự hụt hẫng ngập tràn.
Căn nhà chúng tôi đến vẫn còn trét xi măng, hoàn toàn vụn nát. Giữa 4 góc nhà, một vài người Việt khác đang cố chống chọi lại cái lạnh của cơn tuyết để đứng canh cửa. Trên bức tường, nhiều mảng xi măng đã bị thời gian rửa trôi để lộ ra lớp “ngũ tạng” bên trong đóng rêu đen quạnh.
Những ô cửa sổ đã bể rất lâu và người ta chắn lại bằng gỗ. Cánh cửa chính cũng gỉ sét, mỗi khi gió lùa qua khiến nó kêu lên ken két vang vọng khắp toà nhà. Căn nhà hoàn toàn trống rỗng như một đống phế thải, ngoại trừ bức tường rào cao 2 mét, phủ lớp sơn xanh đen mới toanh khiến tôi chắc chắn nó chỉ vừa mới được xây cách đây không lâu.
Nó thực sự là một ngôi nhà hoang.
Chúng tôi di chuyển lên tầng 2 bằng những chiếc ròng rọc cột tạm bợ bằng gỗ và dây thừng. Ai nấy đều mệt mỏi vì tá hành lý khổng lồ, lũ lượt đi qua từng căn phòng.
Khu tắm rửa tập thể ẩm ướt, được ngăn ra bởi những tấm màn cũ, rách bươm, nuôi nấng trên đó là hàng chục ngàn đám rêu cỏ mọc dại. Người tài xế chỉ tay vào căn buồng nhỏ đầy những chiếc giường tầng cũng đã gỉ sét như sắp gãy và quát: “Tụi bay sẽ ngủ chỗ này”. Mùi ẩm mốc sộc lên mũi khiến tôi ngạt thở.
Đêm đó, nhìn qua cửa sổ, xen kẽ những rặng cây chạy dài vô tận vẫn là ngôi nhà giống hệt nơi chúng tôi ở. Thú thật, nếu không có tiếng động cơ của chiếc máy may kêu lên bạch bạch cả đêm ấy, chúng tôi sẽ chẳng biết ở đây có người sống. Tôi nằm vật ra giường, khóc.
Tôi muốn cầm điện thoại lên để gọi về cho mẹ. Nhưng rồi tôi nghĩ sẽ cho mẹ thấy cái gì ở căn phòng này? Mẹ sẽ tổn thương thế nào khi chứng kiến đứa con gái bé bỏng của mẹ thành ra thế này? Tôi lại bỏ điện thoại xuống, thầm thì đọc thần chú: “Đi mấy tháng có tiền xây nhà cho ba mẹ, con về”.
Bên ngoài, tiếng máy may vẫn bạch bạch, bạch bạch, suốt đêm.
CHÚNG TÔI NHẢY QUA BỨC TƯỜNG, CHẠY BĂNG SÔNG, CẮM ĐẦU CHẠY. CHẲNG BIẾT SẼ CÒN SỐNG HAY CHẾT. PHÍA TRƯỚC TƯỞNG LÀ BẦU TRỜI NHƯNG LẠI LÀ ĐỊA NGỤC…
Ở Nga làm việc thế nào à? Chúng tôi không còn là con người nữa. Tôi chẳng còn biết buồn, vui, thất vọng, hạnh phúc là cảm giác gì trên cõi đời này nữa.
8h sáng, lên giây cót, chúng tôi lại là những con rô-bốt lập trình ngồi vào hàng dọc bàn máy may thẳng tắp. Tiếng kêu bạch… bạch… bạch… của 200 chiếc bàn đạp hoà vào nhau inh ỏi. Ai nấy đều đeo tai phone, mặt lạnh tanh. Kim đồng hồ nhích tới 3h sáng hôm sau, bảo vệ ra, lùa tất cả về phòng.
Trời Nga, 10 tháng mùa đông, chỉ toàn màn đen.
Hồi mới sang, tôi 49 ký, một tháng sau khi bị nhốt trong cái nhà hoang ấy, tôi tụt hẳn 10 ký. Mở mắt ra, 4 bức tường. Ngồi vào bàn đạp, 4 bức tường. Nhắm mặt lại, 4 bức tường. Chúng tôi chưa bao giờ biết đằng sau bức tường rào cao 2 mét ấy, Nga đang là mùa nào, đẹp ra làm sao. Tôi hoàn toàn vô cảm.
Sau 6 tháng bị nhốt, 20 người chúng tôi vẫn không biết mặt ông chủ là ai, không nhận được một đồng bạc tiền lương nào cả.
Vài lần, mấy anh chị hỏi, người quản lý giải thích: “Trừ xong số nợ đưa tụi bay sang đây rồi tụi tao mới trả tiền”. Nhưng nợ bao nhiêu chẳng ai rõ. Nhiều người đứng dậy, sấn tới thì bị bảo vệ đè ra, đấm đá tới tấp vào người cùng tiếng gầm thét: “Mày muốn chống đối hả?”, “Chống đối hả?”. Họ xem chúng tôi như những con thú không hơn không kém.
Chúng tôi còn bị chắt bóp tiền ăn nữa. Mỗi tháng họ bảo tiền ăn uống hết khoảng 3 triệu đồng. Nhưng quanh năm, chúng tôi chỉ ăn khoai tây. Khoai tây luộc, khoai tây chiên, hấp, nấu soup,… ngấy đến tận cổ. Nhiều lúc, ngồi lẳng lặng bên ô cửa kính, nhìn tụi chim chao nghiêng trên cành cây, bay vút lên trời trắng xoá, gương mặt chúng hạnh phúc như đầy thách thức, tôi lại giận giữ, nuốt trọn củ khoai tây như nuốt cục đá rồi quay lại với bàn may.
16 tiếng nữa trôi qua, hết một ngày, tôi đứng dậy, loạng choạng như sắp té. Nhưng đám bảo vệ chẳng mấy quan tâm, chúng quát tháo rồi nẹp tay tôi đưa vào hàng, lùa về phòng. Tối đó, tôi nằm vật ra giường, giả vờ ngủ, chẳng màn tới tin nhắn người bạn trai ở quê nhà tên Nam gửi: “Mấy nay em sao rồi. Sao không nhắn tin cho anh”.
Tuyết ngoài trời rơi dày đặc, tháng 10, nước Nga, mặt trời không thể mọc.
Vài ngày sau, một vài người không chịu đựng được cảnh áp bức của “hợp đồng nô lệ đen”, nửa đêm, họ đập cửa nhảy ra ngoài. Tôi nhìn từng người bay đi, bay đi khỏi khung cửa sổ. Chỉ cần bay ra khỏi bức tường rào 2 mét ấy, chúng tôi sẽ là những chú bồ câu tự do tung cánh. Còn nếu bị bắt trở về, chúng tôi sẽ bị đánh đập người không ra người, ma không ra ma. Đó chỉ là một chuyến đi may rủi.
Lâu lâu, tôi vẫn nghe tin một vài người Việt chịu chết trong “cái lồng nô lệ” đó. Có một mùa đông, căn nhà liền kề chúng tôi bốc cháy ngun ngút. Công nhân, ông chủ gì thì trong đám cháy cũng thành lũ chuột nhắt tái mặt, bỏ chạy tán loạn. Bên trong ngọn lửa rực đỏ, đám công nhân chúng tôi tận mắt chứng kiến một anh công nhân đứng rỉ khóc, ném lá thư tuyệt mệnh rồi gục ngã. Nghe đâu, vài ngày trước, anh đứng dậy tranh đấu vì cái “hợp đồng đen” thì bị tốp bảo vệ đánh, giam lỏng. Muốn về mà không được về, ở thì như địa ngục. Thế là anh chết.
Chúng tôi sau này chỉ dám đặt một tấm biển tên anh bên cạnh toà nhà cháy rụi. Mỗi lần đi làm về, ngang qua, tôi vẫn thấy anh đứng ở cửa sổ tầng 2, khóc tức tưởi. Tôi vừa sợ vừa thương.
“Ba má, con muốn được trở về”.
Đêm đó, sau một ngày làm việc mệt mỏi, tất cả chúng tôi đều thiếp đi nhanh chóng trên cái ổ chuột của riêng mình. 4 giờ sáng, nhóm bảo vệ chạy lên, hét toáng: “Công an tới. Công an tới. Trốn hết mau… Tống hết vào trại bây giờ…”.
Bọn tôi chẳng kịp thu gom gì cả. Tất cả tán loạn chạy nhào vào nhau, đi tìm những cái hầm để ẩn nấp. Tốp bảo vệ đứng trước cái lỗ nhỏ cạnh lò sưởi rồi nhét chúng tôi vào đó. Tất cả phải bò đi như những con gián để tìm đường vào hầm.
Lúc đó, tôi nhìn anh Vinh, chị Hường, chị Vân, Toàn,… chẳng ai nói gì nhưng cả 5 đều hiểu: “Đến giờ rồi”.
Vài ngày trước, anh Vinh đã lên kế hoạch chờ ngày cảnh sát ập vào, cả bọn sẽ cùng nhau bỏ chạy ra phía cửa đối diện, 5 đứa đều gật đầu. Nhưng đến lượt chị Hai, chị lại nhìn tôi sợ sệt, nước mắt lưng tròng, lắc đầu. Bên ngoài, tiếng chiếc búa tạ đập vào tường vang lên inh óc, bức tường đổ sầm như sấm và gọng súng bắn chỉ thiên nở tung như những đốm pháo hoa.
Tôi chẳng đủ thời gian để nghĩ tới chị Hai. Chúng tôi chạy về phía khung cửa sổ, đập toang nó rồi nhảy xuống. Sau lưng, tụi bảo vệ gào thét: “Tụi nó bỏ chạy rồi… Tụi nó bỏ chạy rồi…”.
Lần đầu, tôi thấy tôi gan dạ như thế.
Đến bức tường, anh Vinh quỳ xuống làm trụ, rồi tôi, chị Hường, chị Vân, Toàn lần lượt bước lên cái lưng gầy sọp của anh trèo lên tường. Bầu trời tối đen như mực. 5 chúng tôi, đứng trên bức tường, anh Vinh hô vang 1…2…3, 5 đứa nắm tay nhảy xuống đất. Lần đầu gió Mát-xcơ-va buốt nhức lại giúp đỡ chúng tôi như vậy. Như những cánh tay mẹ, gió tung chúng tôi lên rồi nâng chúng tôi bay giống như chim – tôi cảm giác vậy.
Chúng tôi chạy, cứ nắm tay nhau chạy, cứ cắm đầu gằm mặt mà chạy. Bỏ mặc phía sau, tiếng bảo vệ gào thét: “Bắt tụi nó lại…”. Phía bên cửa sổ, chị Hai vẫn đứng đó, nước mắt tuôn đỏ cả mặt. Tôi quay lại nhìn chị rồi thầm thì: “Em sẽ quay lại đưa Hai đi. Em hứa”, rồi cả 5 chúng tôi, chân đất, áo mỏng tan, chạy trong những cơn gió Mát-xcơ-va.
*Tên nhân vật đã được thay đổi.
Theo Trí Thức Trẻ