Những chiêu bài của Trung Quốc nhằm độc chiếm biển Đông và kế sách đối phó của Việt Nam
Việt Nam nằm sát với Trung Quốc, nhiều đời nay kiên cường không khuất phục, không chấp nhận bị đô hộ nên luôn là đối tượng Trung Quốc muốn “cận công”. Tuy nhiên, cha ông ta đã vô cùng tinh anh, cương nhu phải phép, dụng binh tùy cơ, hợp với lẽ trời và lòng người nên dù đứng trước hiểm họa xâm lăng từ phương Bắc nhưng cha ông chúng ta vẫn giữ được giang sơn muôn dặm, để lại cho con cháu ngày nay.
I. KẾ SÁCH CỦA TRUNG QUỐC:
1. Kế “Viễn giao cận công”: Có nghĩa là ở xa thì giao thiệp, gần thì dùng vũ lực; Bản chất của kế này vốn có từ thời Xuân Thu – Chiến Quốc, với lý luận rằng, đối với nước xa thì nếu gây chiến tranh, với điều kiện ngăn cách về địa lý, không hợp với thủy thổ, quân lương khó vận chuyển, binh lính chết vì ốm đau và cho dù có thuận lợi chiếm được đất nước ở xa đó thì cũng chẳng thể chiếm được đất đai, lãnh thổ, không thể sát nhập vào đất của họ được. Ngược lại, đối với các nước ở gần là phải “cận công” vì có đủ mọi điều kiện thuận lợi, phù hợp với triết lý binh gia, nều chiếm được, lấn được thì có thể nhập vào lãnh thổ của mình theo kiểu tằm ăn lá dâu hòng chiếm dần dần đất đai, biển đảo của nước khác.
Việt Nam nằm sát với Trung Quốc, nhiều đời nay kiên cường không khuất phục, không chấp nhận bị đô hộ nên luôn là đối tượng Trung Quốc muốn “cận công”. Tuy nhiên, cha ông ta đã vô cùng tinh anh, cương nhu phải phép, dụng binh tùy cơ, hợp với lẽ trời và lòng người nên dù đứng trước hiểm họa xâm lăng từ phương Bắc nhưng cha ông chúng ta vẫn giữ được giang sơn muôn dặm, để lại cho con cháu ngày nay.
2. Kế “Vô trung sinh hữu”: Có nghĩa là không có mà làm thành có; mục đích là đánh lạc hướng, làm rối beng sự việc lên, tung tiếng đồn, gây xáo trộn rồi dựa vào đó mà thủ lợi. Phía Trung Quốc một mặt mang tàu Hải Dương và các tàu hộ tống xâm phạm vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam; mặt khác trên các diễn đàn lại bóp méo sự thật một cách trắng trợn, vu khống, xuyên tạc rằng Việt Nam đem một lượng lớn tàu ra “quấy nhiễu”; rằng Việt Nam muốn làm lớn chuyện, gây căng thẳng tại khu vực; Việt Nam vi phạm chủ quyền Trung Quốc…Từ chỗ đó, họ muốn biến khu vực thuộc chủ quyền của nước khác thành vùng tranh chấp với Trung Quốc. Mà vụ Bãi cạn Scarborough của Philippines và Bãi Tư chính của Việt Nam là một trong những ví dụ điển hình nhất cho kế sách này.
Hai kế này rất thâm hiểm, với bộ máy tuyên truyền khổng lồ và bày mưu bài bản, phía Trung Quốc tuyên truyền về cái gọi là “chủ quyền Nam Sa” hoàn toàn phi pháp và trái với luật pháp quốc tế; mọi tài liệu, chứng cứ và bản đồ Trung Quốc qua các triều đại đều chỉ chứng minh một điều rõ nét, không thể chối cãi đó là, cực nam của Trung Quốc chỉ đến đảo Hải Nam. Chính Trung Quốc thừa biết sự đuối lý của mình nên họ luôn lẩn tránh việc đưa các vấn đề biển đảo tại Biển Đông ra trước dư luận và công pháp quốc tế. Vì vậy, đại bộ phận cộng đồng quốc tế có đủ tỉnh táo và sáng suốt để biết rõ chân lý, lẽ phải thuộc về Việt Nam. Chính phủ và nhân dân các nước trên thế ủng hộ chính nghĩa Việt Nam; ủng hộ chủ quyền biển, đảo Việt Nam trên tình thần Luật pháp quốc tế mà cụ thể là Công ước Lên Hiệp quốc về luật Biển 1982.
II. KẾ SÁCH ỨNG PHÓ VỚI TRUNG QUỐC CỦA CHÚNG TA:
1.Đối với việc Trung Quốc mang tàu Hải Dương 8 vào vùng biển của Việt Nam, Việt Nam cực lực phản đối các hành động xâm phạm này và kiên quyết bảo vệ chủ quyền quốc gia và lợi ích chính đáng của mình phù hợp với luật pháp quốc tế”. Yêu cầu Trung Quốc rút hết tàu thuyền ra khỏi vùng biển chủ quyền của chúng ta.
2. Để có thể khống chế “Liên hoàn kế” của Trung Quốc, với thực lực hiện nay, như nhiều người đã bình luận, thượng sách là chúng ta phải sử dụng chiến thuật “Dĩ tĩnh chế động” – nghĩa là lấy cái tĩnh khống chế cái động, lấy nhu để chế cương. Bình tĩnh quan sát đợi cho đối phương hành động và lộ ra yếu điểm thì có thể chế ngự được. Tĩnh cũng có nghĩa là bình tĩnh thì mới tỉnh táo, không bị mê hoặc tâm trí bởi sự náo động, không bị kích động để mắc bẫy Trung Quốc.
3. Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta cũng từng dạy, phải luôn “Dĩ bất biến, ứng vạn biến; Dĩ bất biến ứng vạn biến tức là lấy cái bất biến (không thay đổi) mà ứng phó với cái vạn biến (cái luôn thay đổi). Ý nghĩa triết lý trên là ở chỗ dù mọi sự vật hiện tượng thiên sai vạn biệt, phong phú, đa dạng, thay đổi khôn lường nhưng đều xoay quanh trục của nó, đó là bản thể, là bất biến; cái bất biến là bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; cái vạn biến là tùy cơ ứng biến, tùy cơ hành động sao cho ích nước lợi dân thì làm.
4. Kế Hợp Tung – Liên hoành: kêu gọi các nước trong khu vực và trên thế giới ủng hộ chủ quyền không thể chối cãi của Việt Nam theo tinh thần Công ước Liên Hiệp quốc về Luật biển 1982; lên án hành động xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc; buộc Trung Quốc phải tôn trọng luật pháp quốc tế.
Chúng ta cũng biết, người Trung Quốc coi việc chơi cờ tướng như 1 binh pháp để rèn dũa những tính toán chiến lược và chiến thuật. Nhưng xem ra, khi vội vã đưa “con tốt Hải Dương 8” qua sông, phía Trung Quốc đã phạm yếu lĩnh cơ bản trong đánh cờ, đi sai một nước họ sẽ thua cả ván; nước cờ của Trung Quốc chỉ làm mất uy tín của chính họ trên trường quốc tế, các nước lân bang đề phòng, giảm sút lòng tin vào Trung Quốc. Rõ ràng là việc nhấn tốt “Hải Dương 8” hoàn toàn sai lầm và tất yếu sẽ hỏng hết cả ván cờ.
(Nguyễn Thị Lý)