Nghĩ về cái kết của những kẻ cố tình hiểu sai, làm sai quyền tự do ngôn luận
Những ngày cuối tháng 5, những đối tượng chống phá nhà nước lần lượt bị bắt trong đó có Nguyễn Tường Thụy, đương kim Phó chủ tịch Hội nhà báo độc lập cũng bị công an TP Hồ Chí Minh bắt, tiến hành khám xét nhà. Cả hai trường hợp nói trên đều vi phạm pháp luật về quyền tự do ngôn luận báo chí. Và đó chính là cái kết của những kẻ cố tình hiểu sai, làm sai quyền tự do ngôn luận ở Việt Nam.
Hiểu đúng về quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí
Quyền tự do ngôn luận báo chí được hiểu đó là một quyền con người, quyền công dân. Về nội dung, đó là quyền của tất cả mọi người trong việc tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật, v.v.
Về khái niệm tự do báo chí, xin được khẳng định lại quan điểm của cộng đồng Quốc tế, trong đó có Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, năm 1966. Điều 19 quy định như sau:
1. Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp.
2. Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến, không phân biệt ranh giới, hình thức tuyên truyền miệng, hoặc bằng bản viết, in, hoặc bằng hình thức nghệ thuật, hoặc thông qua mọi phương tiện đại chúng khác tuỳ theo sự lựa chọn của họ.
3. Việc thực hiện những quyền quy định tại khoản 2 của điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, có thể dẫn tới một số hạn chế nhất định. Tuy nhiên, những hạn chế này phải được pháp luật quy định và cần thiết để:
a) Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác,
b) Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức của công chúng.”
Như vậy, bên cạnh quyền tự do báo chí, ngôn luận, còn bị hạn chế bởi quy định là: không được vi phạm “quyền, uy tín cá nhân” (người khác); không được làm tổn hại đến an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức của công chúng. Chẳng hạn, một kẻ đưa tin một ai đó có hành vi tham nhũng nhưng không có bằng chứng là vi phạm quyền và uy tín cá nhân; một kẻ đưa tin về một lực lượng quân sự nào đó vi phạm chủ quyền quốc gia, nhưng không có sự thật, làm tổn thương đến quan hệ quốc tế, là vi phạm an ninh quốc gia đó; hoặc có kẻ đưa những hình ảnh về tệ nạn xã hội có thể làm hại đến môi trường văn hóa của một đất nước… Như vậy, cần phải hiểu đầy đủ khái niệm tự do ngôn luận, tự do báo chí cả về nội dung tư tưởng, chính trị và văn hóa.
Cho đến nay, hành lang pháp luật về báo chí của Nhà nước ta đã đầy đủ với tư duy mới về quyền con người, bảo đảm đầy đủ quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, bao gồm cả tự do internet, mạng xã hội. Ở Việt Nam, thời gian qua, bên cạnh việc bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, Nhà nước Việt Nam đã tập trung xử lý các đối tượng lợi dụng phương tiện này để phục vụ cho mưu đồ chống phá, vi phạm quyền và lợi ích của Nhà nước và công dân theo pháp luật Việt Nam, điều này hoàn toàn phù hợp với luật pháp quốc tế.
Cái kết của những kẻ cố tình hiểu sai, làm sai quyền tự do ngôn luận
Tuy nhiên, những đối tượng chống phá cố tình hiểu sai cốt lõi của quyền tự do ngôn luận tự do báo chí ở nước ta, chúng ra sức xuyên tạc lộng ngôn, chúng xuyên tạc khái niệm tự do báo chí; viện dẫn các quy định của luật pháp quốc tế và luật pháp Việt Nam về tự do báo chí, nhưng cố tình lờ đi những quy định và điều khoản nghĩa vụ kèm theo rồi tán phát qua internet, mạng xã hội làm cho nhiều người hiểu lầm rằng “tự do báo chí” là một quyền tuyệt đối, không có bất cứ một hạn chế nào.
Thực ra, đó không phải là một thứ “tự do ngôn luận” theo đúng ý nghĩa của từ này, không vì sự phát triển của xã hội mà là những lời lẽ, dòng chữ, hình ảnh, video clip chụp mũ, thêu dệt, xuyên tạc, áp đặt, chống phá đầy hằn học, hận thù, đen tối. Đó thực sự là thứ “ngôn luận tự do” bịa tạc, phóng tác, bôi nhọ, tô vẽ,… rẻ rúng, không có căn cứ, bất chấp luân thường, đạo lý và luật pháp.
Điều 16, Luật An ninh mạng quy định về tội: a) Xúc phạm nghiêm trọng danh dự, uy tín, nhân phẩm của người khác; b) Thông tin bịa đặt, sai sự thật xâm phạm danh dự, uy tín, nhân phẩm hoặc gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác.
Chứng cứ mà các cơ quan chức năng thu thập được là các thông tin ở các tài khoản của chúng trên internet, cũng như những tài liệu còn được lưu giữ trên máy tính và điện thoại di động mà chúng đang sử dụng. Phân tích hai trường hợp vừa bị bắt cho thấy, đây là những kẻ đã từng nhiều lần vi phạm pháp luật. Hơn nữa, chúng vốn là những kẻ chống phá chế độ đã lợi dụng xã hội đang tập trung vào chống đại dịch Covid để phát tán thông tin xấu độc để thực hiện mưu đồ của mình.
Và cái kết của những kẻ cố tình làm sai là phải chịu tội trước pháp luật. Chúng đã xúc phạm nhân phẩm, danh dự Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, trên cả hai phương diện: 1- Là một công dân Việt Nam (được pháp luật bảo vệ); 2- Trên cương vị Tổng Bí thư, Chủ tịch nước được toàn Đảng, toàn dân kính trọng, tín nhiệm, đương nhiên cũng được thể chế xã hội bảo vệ. Mặt khác, chúng còn soạn thảo và tàng trữ nhiều tài liệu xấu độc, chuẩn bị tán phát trên không gian điện tử.
Có thể thấy, việc Nguyễn Tường Thụy và đồng bọn bị bắt giữ là cái kết hoàn toàn xứng đáng cho những hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng của y trong suốt thời gian vừa qua. Đáng nói, hoạt động chống phá của Nguyễn Tường Thụy gắn liền với sự ra đời “Hội nhà báo độc lập”, khi y được bầu vào một cương vị “Phó Chủ tịch” của Hội này.
Vì thế đừng kêu oan cũng đừng lộng ngôn rằng “cuộc đàn áp, khủng bố quyền tự do báo chí, tự do sáng tác… nấp dưới chiêu bài xâm phạm an ninh quốc gia”.
Rõ ràng, mỗi người Việt Nam đều có quyền bày tỏ lòng yêu nước của mình, góp ý, phản biện những chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước… Thế nhưng, việc phát ngôn tự do, vô lối, xuyên tạc, kích động gây rối, đập phá tài sản, vi phạm pháp luật là những hành động đáng lên án, cần phải ngăn chặn kịp thời, xử lý nghiêm minh.
Quynh Quỳnh
* Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả