+
Aa
-
like
comment

Loại bẫy đơn giản đang huỷ diệt các khu rừng Việt Nam

14/07/2020 06:30

WWF cảnh báo một cuộc khủng hoảng bẫy dây đang tàn sát các loài hoang dã tại khu vực Đông Nam Á và làm tăng nguy cơ lây truyền dịch bệnh.

Báo cáo của Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên (WWF) được công bố hôm 10/7có ước tính về số lượng bẫy dây đang được đặt trong các khu bảo tồn của những nước trong khu vực.

Báo cáo với đầy đủ là Sự im lặng của những chiếc bẫy dây: Khủng hoạt đặt bẫy dây ở Đông Nam Áước tính có khoảng 12,3 triệu bẫy dây đang đe doạ các loài động vật hoang dã trong các khu bảo tồn ở Campuchia, Lào và Việt Nam.

Đây cũng là những nước có nạn đặt bẫy nghiêm trọng nhất ở khu vực.

Cuoc khung hoang bay day o Viet Nam anh 1
Một con cầy vướng vào bẫy dây làm từ phanh xe đạp tại Khu Bảo tồn Thiên nhiên Saola, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Tăng nguy cơ truyền nhiễm bệnh

Những chiếc bẫy thô sơ này thường được chế tạo từ dây phanh xe đạp hoặc dây cáp, vốn rất dễ tìm kiếm và dễ dàng làm ra với số lượng lớn. Người đặt bẫy sẽ “rải thảm” những chiếc bẫy trong rừng, làm tăng khả năng bắt được động vật hoang dã.

Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đã xác định rất nhiều loài mục tiêu của hoạt động đặt bẫy, như lợn rừng, cầy, và tê tê, thuộc nhóm các loài có nguy cơ cao mang các bệnh truyền nhiễm. Và việc đặt bẫy sẽ làm tăng tần suất tiếp xúc giữa con người với những loài này, do đó tăng nguy cơ lan truyền các bệnh truyền nhiễm bắt nguồn từ động vật sang người.

Ông Stuart Chapman, người đứng đầu Sáng kiến Tigers Alive của WWF, chia sẻ: “Các bẫy thú này đang gây ra sự chết chóc khủng khiếp cho các loài hoang dã, quét sạch bóng dáng của chúng khỏi những khu rừng, từ hổ đến voi, cầy vòi hương và tê tê. Nếu chính phủ các quốc gia Đông Nam Á không khẩn trương hành động, những loài động vật hoang dã này sẽ không có cơ hội tồn tại.”

“Nạn đặt bẫy chính là mối đe doạ hàng đầu đối với loài hổ trong khu vực. Đây cũng là nguyên nhân chính dẫn đến việc loài hổ được coi là đã tuyệt chủng ở Campuchia, Lào và Việt Nam. Nếu không có những biện pháp quyết liệt, nạn đặt bẫy thú sẽ dẫn đến một làn sóng tuyệt chủng ở khắp các quốc gia châu Á”, ông Stuart cho biết.

Để đáp ứng nhu cầu sử dụng thịt thú rừng làm món ăn đặc sản trong khu vực đô thị, việc đặt bẫy đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới hơn 700 loài thú bao gồm những loài đang có nguy cơ tuyệt chủng cao như voi châu Á, hổ, sao la và bò rừng.

Khi mắc bẫy, động vật phải chịu đau đớn vài ngày hoặc hàng tuần trước khi chết bởi các vết thương, và, rất hiếm khi, nếu chúng có thể thoát khỏi bẫy thì chúng cũng chết bởi các vết thương hoặc do nhiễm trùng.

Belum-Temengor, Malaysia, là một trong số ít những khu bảo tồn hổ quan trọng nhất của Đông Nam Á, từ năm 2009 – 2018, đã mất đi 50% số lượng quần thể hổ chủ yếu do bị đặt bẫy tràn lan.

Bà Sophia Lim, Giám đốc Điều hành của WWF Malaysia chia sẻ: “Chỉ tháo dỡ các bẫy thôi thì chưa đủ. Chính phủ các quốc gia Đông Nam Á phải tăng cường thực thi luật pháp, cải thiện hệ thống pháp luật để ngăn chặn đặt bẫy một cách hiệu quả và quan trọng hơn là kêu gọi sự tham gia của người dân bản địa và các cộng đồng địa phương trong cuộc chiến này”.

Cuoc khung hoang bay day o Viet Nam anh 2
Số lượng bẫy dây thu thập được trong một buổi tuần tra của lực lượng kiểm lâm.  

Cần có những hành động cấp bách để giải quyết mối đe dọa này đối với các loài hoang dã, các hệ sinh thái và sức khỏe cộng đồng. Chính phủ các nước cần phải ngăn chặn việc mua bán, vận chuyển và tiêu thụ các loài động vật hoang dã có nguy cơ lây truyền dịch bệnh sang người cao, bao gồm hầu hết loài móng guốc và các loài động vật ăn thịt – mục tiêu chính của các hoạt động đặt bẫy.

Để các biện pháp này đạt được thành công, cả khu vực cũng cần tập trung hơn vào việc tăng cường quản lý các khu bảo tồn.

Lợn rừng mang nhiều mầm bệnh nhất ở châu Á

Tại Việt Nam, chỉ riêng trong hai Khu bảo tồn Sao la tỉnh Thừa Thiên – Huế và tỉnh Quảng Nam, đã có 127.857 bẫy thú được tháo gỡ trong giai đoạn năm 2011-2019, trung bình mỗi năm tháo gỡ được 14.206. Mật độ bẫy tại Khu bảo tồn Sao la tỉnh Thừa Thiên-Huế và Quảng Nam là 880 bẫy/km2 , cao nhất trong khu vực.

Số lượng bẫy ước tính tại Việt Nam, tại bất kỳ một thời điểm nào, là hơn năm triệu bẫy, dựa trên mật độ bẫy ước tính trong khu bảo tồn là 110,7 bẫy/km2 với số liệu được coi như tương đồng giữa tất cả các khu bảo tồn.

Thịt của các loại động vật hoang dã quý hiếm như tê tê hay hổ là mặt hàng xa xỉ dành cho những người giàu có ở Việt Nam, trong khi phần lớn động vật ăn thịt và động vật móng guốc nhỏ được tầng lớp trung lưu xem như đặc sản.

Khảo sát cho thấy nhiều người dân sống tại các đô thị của Việt Nam (20-80%, tùy vào địa điểm) sử dụng các sản phẩm từ thịt động vật hoang dã ít nhất một lần mỗi năm. 60% – 80% việc sử dụng thịt động vật hoang dã tại các trung tâm đô thị xảy ra tại nhà hàng.

Loài được tiêu thụ nhiều nhất, chiếm gần 75% tổng lượng tiêu thụ, là lợn rừng, tuy nhiên chính loài này đã được chứng minh là mang nhiều mầm bệnh lây truyền nhất trong tất cả các loài được buôn bán tại thị trường châu Á, trong đó có cúm lợn, virus Rota gây ra các bệnh tiêu chảy và virus Hepatitis E gây bệnh gan.

Cuoc khung hoang bay day o Viet Nam anh 3
Một con lợn rừng bị mắc bẫy tại Việt Nam, chúng được chứng minh là mang nhiều mầm bệnh nhất trong số các loài động vật hoang dã được bày bán trên thị trường.  

Các cuộc khảo sát về kinh tế – xã hội tại các cộng đồng sống xung quanh 3 khu bảo tồn của Trung Trường Sơn cho thấy khoảng 25%-33% làng bản chủ yếu dùng bẫy để săn bắt thú, không phải vì thức ăn hay để tồn tại mà đó là nguồn thu nhập chủ yếu của gần 40% người sống bằng nghề đi săn.

Việt Nam là một trong hai nước duy nhất tại Đông Nam Á áp dụng mức phạt tối thiểu nghiêm khắc nhất đối với mọi hình thức săn bắt bằng bẫy trong các khu bảo tồn. Tuy nhiên, khả năng bị xử phạt vì tội đặt bẫy còn thấp trong khi Việt Nam nằm trong số những quốc gia có lượng bẫy đặt cao nhất tại Đông Nam Á.

(Theo WWF Việt Nam)

Bài mới
Đọc nhiều