Kịch bản tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2024
Quá nhiều “cơn gió ngược” đã đẩy kinh tế toàn cầu năm 2023 vào một trong những giai đoạn ảm đạm nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2007-2008. Tuy nhiên, Việt Nam lại là quốc gia hiếm hoi vẫn ghi nhận kết quả GDP năm 2023 tăng 5,05%, bỏ xa nhiều quốc gia Đông Nam Á. Liệu 2024 vẫn sẽ là một năm đầy thành tựu cho Việt Nam khi khủng hoảng toàn cầu vẫn chưa có dấu hiệu dừng lại?
Mới đây, trang Star vừa có bài viết trích dẫn các tổ chức quốc tế đánh giá thế nào về triển vọng 2024 của Việt Nam, trong đó World Bank, IMF…. đều đồng loạt dự báo sẽ cao thứ 2 trong khu vực Đông Nam Á.
Tăng trưởng GDP Việt Nam năm 2024 được dự báo ra sao?
Theo báo cáo mới nhất của World Bank, sang năm 2024, tình hình kinh tế thế giới được dự báo sẽ tiếp tục chậm lại năm thứ 3 liên tiếp, kéo dài tình trạng nghèo đói và làm trầm trọng mức nợ ở nhiều nước đang phát triển. Theo đó, World Bank dự báo GDP toàn cầu tăng trưởng 2,4% trong năm nay. Tỷ lệ này là 2,6% trong năm 2023, 3% trong năm 2022 và 6,2% trong năm 2021.
Đối với Việt Nam, World Bank dự báo, tăng trưởng GDP của Việt Nam trong năm 2024 sẽ đạt khoảng 5,5%, đứng thứ hai trong khu vực Đông Nam Á, chỉ thấp hơn Philippines (5,8%).
Còn theo dự báo của Ngân hàng UOB, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam được dự báo sẽ ở mức 6% trong năm 2024. Với mức dự báo này, tăng trưởng GDP năm 2024 của Việt Nam sẽ đứng thứ 2 trong khu vực Đông Nam Á, sau Philippines (6,5%).
Một số quốc gia khác trong khu vực Đông Nam Á như Indonesia, Thái Lan, Malaysia được dự báo tăng trưởng GDP sẽ lần lượt đạt 5,2%, 3,6% và 4,6%.
Theo ông ông Suan Teck Kin, Giám đốc khối Nghiên cứu thị trường và kinh tế toàn cầu, Ngân hàng UOB tại Việt Nam, một số động lực tăng trưởng chính như xuất khẩu, thu hút FDI được dự báo có triển vọng tươi sáng trong năm 2024.
Đối với IMF, số liệu mới nhất của tổ chức này dự báo, GDP năm 2024 của Việt Nam dự kiến sẽ tăng 5,8%, đứng thứ hai trong khu vực. Cũng theo số liệu này, Philippines vẫn là quốc gia có tăng trưởng GDP cao nhất trong khu vực năm 2024, ở mức 5,9%.
Với tăng trưởng GDP năm 2024 được dự báo ở mức 5%, Indonesia là quốc gia có dự báo tăng trưởng GDP năm 2024 cao thứ 3 trong khu vực. Theo sau là Malaysia, Thái Lan và Singapore với dự báo tăng trưởng GDP năm 2024 lần lượt là 4,3%, 3,2% và 2,1 %.
Trong báo cáo phân tích mới nhất về tình hình kinh tế vĩ mô Việt Nam, VinaCapital đánh giá, năm 2024 sẽ là một năm nền kinh tế Việt Nam sẽ trở nên mạnh mẽ hơn, nhờ sự phục hồi trong lĩnh vực sản xuất và tâm lý người tiêu dùng được cải thiện. Theo đó, VinaCapital kỳ vọng vào năm 2024, tăng trưởng GDP của Việt Nam sẽ tăng lên 6-6,5% trong nhờ xuất khẩu của Việt Nam phục hồi. Bên cạnh đó, nhu cầu về hàng “Made in Vietnam” từ người tiêu dùng ở Mỹ/EU, đặc biệt là hàng điện tử tiêu dùng bắt đầu phục hồi và có khả năng tăng tốc khi bước sang năm 2024.
Kịch bản tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2024
Dựa trên những phân tích từ các tổ chức quốc tế, nhiều chuyên gia đều thấy được 2 kịch bản dự báo triển vọng kinh tế Việt Nam trong năm 2024.
Theo đó, tăng trưởng GDP của Việt Nam trong năm 2024 có thể đạt mức 6,13% theo kịch bản 1, và 6,48% trong kịch bản 2. Cùng với đó, xuất khẩu cả năm dự báo tăng 4,02% trong kịch bản 1 và tăng 5,19% trong kịch bản 2. Thặng dư thương mại dự báo tương ứng ở các mức 5,64 tỷ USD và 6,26 tỷ USD. Lạm phát bình quân năm 2024 dự báo lần lượt ở mức 3,94% và 3,72%.
Thực chất, khu vực doanh nghiệp chứng kiến những chuyển biến tích cực trong nửa cuối 2023.
Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới năm 2023 đạt mức kỷ lục, đạt gần 160.000 doanh nghiệp, cao gấp 1,2 lần mức bình quân giai đoạn 2017-2022 và tăng 4,6% so với ước thực hiện cả năm. Số lượng doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường tăng 4,5% so với cùng kỳ năm 2022, gấp 1,3 lần số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường trong 2023.
Kết quả này cho thấy khu vực doanh nghiệp đang có sự cơ cấu lại, song niềm tin vào triển vọng kinh doanh của cộng đồng doanh nghiệp vẫn được củng cố
Đối với chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân năm 2023 tăng 3,25% so với năm 2022, thấp hơn nhiều so với mục tiêu đề ra cho cả năm 2023 (4,5%). CPI bình quân tăng 2,89% trong quý III/2023 và 3,54% trong quý IV/2023. Lạm phát cơ bản bình quân cả năm 2023 đạt 4,16%, cao hơn so với năm 2022 (2,59%) và cao hơn mức lạm phát chung. Tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội năm 2023 ước đạt 3.423,5 nghìn tỷ đồng, xấp xỉ 33,5% GDP, tăng 6,2% so với cùng kỳ năm 2022.
Đầu tư của khu vực nhà nước tăng nhanh nhất, tiếp đó là của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư toàn xã hội suy giảm mạnh đã phản ánh khó khăn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước do chịu tác động mạnh từ nhiều tác động tiêu cực cả trong và ngoài nước.
Trong bối cảnh khó khăn đó, nỗ lực giải ngân nguồn vốn đầu tư công trong năm 2023 đã giúp duy trì tăng trưởng đầu tư từ nguồn vốn nhà nước ngang với mức tăng cùng kỳ 2022, qua đó tạo động lực quan trọng cho phục hồi tăng trưởng kinh tế. Trong bối cảnh khó khăn chung của nền kinh tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vẫn là điểm sáng đáng ghi nhận. Tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam tính đến ngày 20/12/2023 đạt gần 36,6 tỷ USD, tăng 32,1% so với 2022.
Vốn FDI thực hiện năm 2023 ước đạt 23,18 tỷ USD, tăng 3,5% so với 2022, đánh dấu số vốn FDI thực hiện cao nhất trong 5 năm qua. Năm 2023, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam ước đạt 683 tỷ USD. Cán cân thương mại hàng hóa thặng dư ước đạt 28 tỷ USD. Cả xuất khẩu và nhập khẩu đều giảm trong năm 2023, song đã có sự cải thiện đáng kể trong các tháng cuối năm, và giữa các tháng trong năm. Các FTA đã góp phần đáng kể cho phục hồi hoạt động xuất khẩu cũng như đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam.
Tuy vậy, theo các chuyên gia kinh tế, góc nhìn về tận dụng ưu đãi trong FTA ở khu vực RCEP cần được mở rộng, bởi RCEP được thiết lập trên cơ sở đã có một loạt FTA ở khu vực Đông Á. Chính vì vậy, việc hiện thực hóa RCEP đã tạo thêm động lực cho các hoạt động tận dụng FTA ở khu vực này (trong đó có các FTA của ASEAN) ngay trong bối cảnh khó khăn do dịch Covid-19. Việt Nam cần tiếp tục xử lý một số thách thức trong quá trình thực hiện RCEP trong thời gian tới, trong đó có các thách thức về cải thiện tỷ lệ tận dụng ưu đãi, rủi ro gia tăng nhập siêu với một số đối tác trong RCEP, và bảo đảm chất lượng của các dự án FDI từ khu vực RCEP.
Bảo Trâm