Trong một năm kể từ ngày Chính phủ được kiện toàn, đất nước ta gặp muôn vàn khó khăn, thách thức, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã “chạy đua” với thời gian, nỗ lực thực hiện tốt nhất có thể cam kết “hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân” với tư duy đột phá, tầm nhìn chiến lược.
Chiều ngày 5/4/2021, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tuyên thệ nhậm chức trước Quốc hội. Ngày 8/4, Quốc hội phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm 2 Phó Thủ tướng và 12 Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
Trong bài phát biểu nhậm chức, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã khẳng định “nguyện sẽ mang hết sức mình, vượt qua mọi khó khăn, thách thức; kế thừa, phát huy truyền thống và kinh nghiệm quý báu của các đồng chí Thủ tướng qua các thời kỳ; nỗ lực cùng các đồng chí Thường trực Chính phủ, thành viên Chính phủ đoàn kết, liêm chính, hành động quyết liệt, hiệu quả, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, tất cả vì lợi ích của Đảng, của quốc gia, dân tộc”.
Năm 2021 là thời khắc hết sức đặc biệt khi khó khăn, chồng chất khó khăn, nhiều ý kiến đánh giá đây là năm khó khăn, thách thức nhất kể từ sau Đổi mới với những diễn biến chưa từng có tiền lệ, nhanh, phức tạp, khó lường.
Trong 1 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã cùng với cả hệ thống chính trị, hoàn thành cùng lúc nhiều nhiệm vụ quan trọng: Nhiệm vụ thường xuyên, nhiệm vụ không thường xuyên (tổ chức Đại hội Đảng toàn quốc, bầu cử Quốc hội và HĐND các cấp, kiện toàn các chức danh lãnh đạo Nhà nước), nhiệm vụ xử lý những vấn đề tồn đọng, kéo dài từ giai đoạn trước và đặc biệt là những nhiệm vụ đột xuất, bất ngờ (đợt bùng phát dịch COVID-19 với những biến chủng mới) và những nhiệm vụ mang tầm chiến lược, đặt nền móng lâu dài cho đất nước phát triển thời gian tới.
Nhiều ý kiến nhận định, về tổng thể, năm đầu tiên của Chính phủ dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Phạm Minh Chính có thể chia làm 2 giai đoạn, mỗi giai đoạn kéo dài khoảng 6 tháng, với những trọng tâm ưu tiên khác nhau.
Giai đoạn 1 từ khi Chính phủ được kiện toàn tới ngày 11/10/2021, khi Chính phủ ban hành Nghị quyết số 128 quy định tạm thời về thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh. Trong giai đoạn này, ứng phó, kiểm soát dịch bệnh là nhiệm vụ được ưu tiên hơn với tinh thần đặt tính mạng, sức khỏe nhân dân lên trên hết, trước hết.
Giai đoạn 2 từ ngày 11/10/2021 tới nay, khi Việt Nam thực hiện chuyển hướng chiến lược, vừa thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh, vừa mở cửa trở lại, phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội.
Điển hình toàn cầu về tiếp cận vaccine, tiêm chủng, kiểm soát dịch bệnh.
Cuối tháng 4/2021, dịch COVID-19 với biến chủng Delta lây lan nhanh và nguy hiểm xâm nhập sâu vào nước ta, với những diễn biến chưa có tiền lệ, trong lúc chúng ta chưa có đủ vaccine, chưa có thuốc điều trị, chưa hiểu hết về biến chủng mới, chưa có nhiều kinh nghiệm ứng phó, năng lực y tế còn hạn chế. Hầu hết các vật tư, sinh phẩm, thiết bị y tế phải nhập khẩu trong điều kiện nguồn cung khan hiếm trên toàn cầu. Đơn cử, với một mặt hàng không thể thiếu trong chống dịch là ô xy y tế, Việt Nam sản xuất được, nhưng bình ô xy phải nhập khẩu! Do đó, chúng ta không tránh khỏi những lúng túng ban đầu.
Đặc biệt, khi dịch bệnh tấn công vào TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, xâm nhập sâu vào các trung tâm kinh tế, đô thị lớn, khu công nghiệp, khu chế xuất, tình hình khó khăn, phức tạp hơn nhiều lần.
Thực hiện các nghị quyết, kết luận của Đảng, Quốc hội và hưởng ứng Lời kêu gọi của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, chúng ta đã kế thừa và liên tục điều chỉnh, hoàn thiện các biện pháp phòng, chống dịch. “Tình hình càng khó khăn, phức tạp, nhạy cảm càng phải đoàn kết, giữ đúng nguyên tắc, phát huy dân chủ, huy động trí tuệ tập thể, lắng nghe ý kiến của nhau, đưa ra quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Lấy khó khăn, thách thức làm động lực phấn đấu, vươn lên, khẳng định, trưởng thành” – Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ kiên trì, kiên định điều này.
Với tinh thần đặt tính mạng, sức khỏe người dân lên trên hết, trước hết, khi chưa có đủ vaccine và thuốc chữa bệnh, chúng ta bắt buộc phải áp dụng các biện pháp hành chính để bảo vệ sức khỏe, tính mạng người dân, trong đó có việc giãn cách và tăng cường giãn cách xã hội tại TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh thành phía Nam với khoảng 40 triệu người.
Đặc biệt, TP. Hồ Chí Minh có số dân đông nhất cả nước, cơ cấu dân số đa dạng nhất, thành phần dân cư phong phú nhất, với nhiều đặc điểm riêng về xã hội. Do đó, trong tổng thể các biện pháp phòng, chống dịch chung cả nước, phải có các biện pháp đặc thù riêng dành cho Thành phố, đây là bài toán khó đặt ra trong giai đoạn đầu của đợt bùng phát dịch lần thứ 4. Ở thời điểm khó khăn nhất, Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị ban bố tình trạng khẩn cấp. Có thời điểm, các cơ quan có thẩm quyền đã tính tới phương án di dời người dân tại đây, như đã từng làm rất hiệu quả tại Bắc Ninh, Bắc Giang. Nhưng dân số một quận tại Thành phố Hồ Chí Minh đã tương đương với dân số một tỉnh khác, đây là bài toán rất khó khăn, không khả thi.
Trong những ngày “nước sôi lửa bỏng” ấy, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã liên tục chủ trì các cuộc họp ngày đêm, nhiều cuộc kéo dài tới quá nửa đêm để tìm phương án, giải pháp tối ưu nhất. Thủ tướng đã báo cáo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, trao đổi với các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, lãnh đạo các bộ, ngành và đi tới quyết định không tuyên bố tình trạng khẩn cấp tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng áp dụng một số biện pháp như tình trạng khẩn cấp.
Một loạt biện pháp chưa từng có tiền lệ được quyết liệt triển khai với tinh thần lấy xã, phường làm pháo đài, người dân là chiến sĩ, giúp người dân tiếp cận nhanh nhất, sớm nhất, ngay từ cơ sở với các biện pháp y tế và bảo đảm an sinh xã hội, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn, an dân.
Cả nước đã điều động một lực lượng vô cùng lớn với gần 300.000 cán bộ chiến sĩ quân đội, công an, y tế chi viện cho TP. Hồ Chí Minh và các địa phương; tăng cường một lượng khổng lồ các loại trang thiết bị, vật tư, sinh phẩm… phục vụ cho phòng, chống dịch; gấp rút thiết lập hơn 700 trạm y tế lưu động ngay tại từng xã, phường, thị trấn; thực hiện bảo đảm an sinh cho nhân dân đến từng hộ gia đình trong khu vực giãn cách xã hội; đồng thời, đẩy mạnh thực hiện chiến lược vaccine, ưu tiên vaccine lớn nhất, nhanh nhất cho TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh có dịch bệnh diễn biến phức tạp.
Thủ tướng đã liên tục có các chuyến đi trực tiếp thị sát tại tâm dịch, những nơi nóng bỏng nhất, nguy hiểm nhất, đến tận các cột mốc biên giới và cả những chuyến “vi hành” xuyên đêm qua hệ thống hội nghị trực tuyến được kết nối tới tận hơn 10.000 xã phường để kiểm tra, đôn đốc kịp thời công tác phòng chống dịch, động viên lực lượng tuyến đầu… Nhiều người dân vẫn nhớ hình ảnh chiếc áo ướt đẫm mồ hôi của Thủ tướng trong những ngày cam go nhất.
Nhiều chính sách “chưa từng có tiền lệ” hỗ trợ người dân được xây dựng, ban hành, triển khai thực hiện quyết liệt và hiệu quả, trên quy mô chưa từng có, trong thời hạn rất gấp rút nhưng lại kéo dài, trong điều kiện giãn cách xã hội để chống dịch và nguồn lực lại có hạn. Năm 2021, cả nước đã dành gần 71.500 tỷ đồng hỗ trợ 742.000 lượt người sử dụng lao động, 42,8 triệu người lao động; xuất cấp hơn 158.000 tấn gạo hỗ trợ người dân gặp khó khăn.
Chúng ta đã sơ kết, đúc rút kinh nghiệm, dần hình thành và hoàn thiện lý luận và công thức phòng, chống dịch bảo đảm sát tình hình và phù hợp điều kiện Việt Nam với 3 trụ cột (cách ly nhanh nhất, hẹp nhất, chặt nhất có thể và giải tỏa cách ly nhanh nhất có thể; xét nghiệm thần tốc, khoa học, hiệu quả, hợp lý, tiết kiệm, nhanh hơn tốc độ lây lan của dịch; điều trị từ sớm, từ xa, từ cơ sở) cùng công thức “5K+vaccine+thuốc+công nghệ+ý thức người dân và các biện pháp khác…”
Trong bối cảnh vaccine khan hiếm toàn cầu, “ngoại giao vaccine” và chiến dịch tiêm chủng lớn nhất lịch sử miễn phí cho nhân dân đã giúp Việt Nam “đi sau về trước”, trở thành một trong những nước có tỷ lệ bao phủ vaccine cao nhất thế giới. Những thông điệp của lãnh đạo Đảng, Nhà nước như “đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng đối tượng” để tiêm vaccine cho nhân dân, “vaccine tốt nhất là vaccine được tiêm sớm nhất” đã được cả hệ thống chính trị và người dân hưởng ứng mạnh mẽ.
Đến nay, cả nước đã bình tĩnh, tự tin mở cửa trở lại, thực hiện hiệu quả chủ trương thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh. Số ca mắc mới sau một thời gian tăng cao khi tiến hành các biện pháp mở cửa, đến cuối tháng 3 bắt đầu giảm mạnh, trong khi tỷ lệ và số ca chuyển nặng, nhập viện và tử vong tiếp tục giảm rất sâu, trong tầm kiểm soát.
Vượt ‘bão giá’ và những cú sốc toàn cầu, hướng tới phục hồi nhanh, phát triển bền vững
Vào thời điểm dịch bệnh diễn biến phức tạp nhất, các biện pháp hành chính buộc phải thực hiện trên diện rộng vì sức khỏe, tính mạng của người dân tất yếu ảnh hưởng rất bất lợi đến hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống người dân. Trong đó, việc tăng cường giãn cách xã hội toàn TP Hồ Chí Minh và một số địa phương phía Nam – khu vực kinh tế trọng điểm của cả nước – là một quyết định rất khó khăn, cân não.
Để giảm thiểu tác động tiêu cực của các biện pháp hành chính tới sản xuất, kinh doanh, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành, trình các cấp có thẩm quyền quyết định hàng loạt chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, nhà đầu tư. Trước những lo ngại về nguồn vốn đầu tư nước ngoài có thể dịch chuyển ra khỏi Việt Nam, đích thân Thủ tướng Phạm Minh Chính đã có hàng chục cuộc làm việc, gặp gỡ với các doanh nghiệp và hiệp hội doanh nghiệp nước ngoài, đại sứ của nhiều nước… Ông khẳng định “sẵn sàng đối thoại với bất kỳ ai có nhu cầu” đầu tư và làm ăn lâu dài ở Việt Nam trên tinh thần “lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ”.
Khi dịch bệnh cơ bản được kiểm soát, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ lập tức thúc đẩy mạnh mẽ việc phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội. Những ngày đầu xuân năm mới Nhâm Dần (2022), Thủ tướng có chuyến công tác “xuyên Việt, xuyên Tết” thúc đẩy các dự án hạ tầng giao thông trọng điểm.
Kết quả, tăng trưởng GDP từ mức âm hơn 6% trong Quý III/2021 đã đảo chiều tăng 5,22% trong Quý IV năm 2021, qua đó đưa GDP Việt Nam năm 2021 tăng 2,58%. Kinh tế vĩ mô ổn định, các cân đối lớn (thu – chi ngân sách; xuất – nhập khẩu; năng lượng; lương thực, thực phẩm; cung – cầu lao động) được bảo đảm. Hầu hết hoạt động kinh tế – xã hội đã được phục hồi trở lại. Quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, tiếp tục chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện, thực chất, hiệu quả.
Quy hoạch, xây dựng huyện đảo Trường Sa trở thành trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội trên biển của cả nước và là thành trì vững chắc bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. Việc này cần làm càng sớm càng tốt và ngay sau quy hoạch phải dành nguồn lực để thực hiện.
Thủ tướng Phạm Minh Chính
Bước sang năm 2022, quá trình hồi phục nền kinh tế có thêm những tín hiệu hết sức tích cực, mặc dù bối cảnh tình hình có những diễn biến mới phức tạp, đột xuất, bất ngờ, khó khăn, thách thức nhiều hơn cơ hội, thuận lợi, sức ép lạm phát trong và ngoài nước rất lớn.
Tăng trưởng GDP quý I đạt 5,03%, đạt mức cao nhất so với quý I của các năm 2020-2021, đáng chú ý là khu vực dịch vụ tăng 4,58%, gấp 1,5 lần so với cùng kỳ các năm này. Các chuyến bay thương mại quốc tế đã được mở lại từ 15/02, hoạt động du lịch được mở lại hoàn toàn từ ngày 15/3.
Xuất khẩu phục hồi mạnh mẽ trong tháng 3, tăng 45,5% so với tháng trước, tính chung quý I tăng 12,9% so với cùng kỳ; xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước tăng 50,5% so với tháng trước, tính chung quý I tăng 22% so với cùng kỳ, gấp 2,2 lần tốc độ tăng của khu vực FDI (10%).
Cũng trong quý I, với mức tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) khá thấp (1,92%), nước ta đã bước đầu vượt qua “bão giá” từ những cú sốc lớn của tình hình quốc tế, nhờ khả năng cân đối sản xuất trong nước cũng như các chính sách hiệu quả, thiết thực giúp giảm áp lực đáng kể lên mặt bằng giá. Số liệu cập nhật cũng cho thấy, chỉ số giá tiêu dùng CPI cả năm 2021 chỉ tăng 1,84%, thấp nhất kể từ năm 2016.
Về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), trái ngược với những lo ngại, thực tế hoàn toàn không có cái gọi là “làn sóng” rời khỏi Việt Nam. Và các số liệu cập nhật cũng cho thấy, trái ngược với ước tính có thể giảm nhẹ, thu hút FDI năm 2021 lại đạt kết quả ấn tượng với mức tăng trưởng cao 25,2%. Sang quý I năm 2022, vốn FDI đăng ký tăng thêm và góp vốn, mua cổ phần tăng gần gấp 2 lần so với cùng kỳ; FDI thực hiện tăng 7,8% so với cùng kỳ, mức tăng cao nhất kể từ năm 2016.
Thu hút FDI cũng tiếp tục chuyển mạnh theo hướng công nghệ cao, thân thiện môi trường, mà điển hình nhất là dự án trị giá hơn 1 tỷ USD của LEGO tại Bình Dương, nhà máy “bền vững nhất”, nhà máy trung hòa carbon đầu tiên của Tập đoàn trên toàn thế giới.
Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và tái gia nhập thị trường trong tháng 03/2022 cao gấp 3 lần doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, tính chung quý I đạt kỷ lục hơn 60.000 doanh nghiệp, tăng 36,7% so với cùng kỳ năm trước. Đây là những dấu hiệu tăng trưởng tích cực cho năm 2022, phản ánh kỳ vọng, niềm tin mạnh mẽ của cộng đồng doanh nghiệp, nhà đầu tư trong và ngoài nước vào tiến trình mở cửa, phục hồi của nền kinh tế sau hơn 02 năm chịu tác động của dịch bệnh và triển vọng tăng trưởng trung và dài hạn của Việt Nam.
Với tinh thần đầu tư công có trọng tâm, trọng điểm, làm việc nào dứt điểm việc đó, ngay từ khi bắt tay vào nhận nhiệm vụ, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã chỉ đạo quyết liệt cắt giảm số dự án đầu tư công trung hạn.
Từ tổng kết thực tiễn, Người đứng đầu Chính phủ chỉ rõ, nguyên nhân quan trọng nhất dẫn tới những hạn chế của đầu tư công thời gian qua (như hiệu quả chưa cao, giải ngân chậm…) là đầu tư dàn trải, manh mún, chia cắt, cộng với thủ tục rườm rà, không phân cấp mạnh, kỷ luật chưa nghiêm.
Thực tế, giai đoạn 2016-2020, số dự án đầu tư công đã giảm mạnh xuống còn khoảng 11.000, so với con số hơn 20.000 dự án của giai đoạn trước. Tuy nhiên, trong cuộc họp đầu tiên của Thủ tướng Phạm Minh Chính về vấn đề này, các bộ, cơ quan, địa phương vẫn dự kiến tới gần 6.500 dự án. Người đứng đầu Chính phủ đã dứt khoát yêu cầu giảm con số này xuống dưới 5.000 trong giai đoạn 2021-2025.
Trong tất cả các chuyến công tác tại địa phương, Thủ tướng cũng luôn đặc biệt nhấn mạnh phải dứt khoát khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, manh mún, chia cắt. Ông kêu gọi các địa phương “chung tay phát triển hạ tầng”, khắc phục tâm lý trông chờ, ỷ lại từ Trung ương; một mặt phải suy nghĩ, tính toán, tiết kiệm tối đa chi thường xuyên, thậm chí “thắt lưng buộc bụng” để dành cho đầu tư phát triển, cho các công trình trọng điểm, lan tỏa cao, mặt khác phải đẩy mạnh hợp tác công tư trong phát triển hạ tầng chiến lược, lấy đầu tư công dẫn dắt, kích hoạt huy động các nguồn lực đầu tư ngoài nhà nước.
Quyền lực thì phân cấp, nhưng nguồn lực tập trung, Thủ tướng nhấn mạnh.
Với mục tiêu tạo chuyển biến rõ nét trong đột phá chiến lược về hạ tầng, các dự án giao thông chiếm ưu tiên đặc biệt trong chương trình nghị sự của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Trong mọi chuyến công tác địa phương, Thủ tướng đều dành thời gian đi thực địa, khảo sát thực tế hướng tuyến, quy hoạch các dự án cao tốc. Gần đây nhất, khi Đồng Nai và Bình Phước còn có ý kiến khác nhau về việc xây dựng cầu Mã Đà, Thủ tướng đã tới con suối nằm giáp ranh giữa hai tỉnh này để khảo sát, tìm ra phương án tối ưu nhất.
Với Hưng Yên, ông về dự lễ khởi công các tuyến đường kết nối với tuyến cao tốc Hà Nội-Hải Phòng và tuyến cao tốc Cầu Giẽ-Ninh Bình. Đây là những công trình mà trước đó ông đã chia sẻ về tầm nhìn với lãnh đạo tỉnh, rằng nếu làm được, Hưng Yên sẽ tự lực phát triển, làm “sớm ngày nào thì Hưng Yên phát triển ngày đó, nhân dân được hưởng lợi ngày đó”.
Tại Tuyên Quang, trên cơ sở phân tích những khó khăn rất lớn do tỉnh chỉ có đường bộ, ông yêu cầu tỉnh cần dồn lực cho hạ tầng chiến lược, trước mắt là tuyến cao tốc Phú Thọ-Tuyên Quang và tuyến cao tốc Tuyên Quang-Hà Giang.
Ông nêu rõ, việc triển khai các dự án cao tốc cần đi theo hướng tuyến thẳng nhất, ngắn nhất có thể, không bám theo đường cũ hay khu dân cư, “qua sông bắc cầu, qua đồng đổ đất, qua núi khoét núi”, qua đó giảm được khâu giải phóng mặt bằng, giảm chi phí và thời gian, tạo ra không gian phát triển mới.
Bên cạnh đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo nghiên cứu, tổng kết thực tiễn và xây dựng trình các cấp có thẩm quyền để tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong triển khai các dự án hạ tầng giao thông, nhất là các tuyến cao tốc, trên tinh thần hiệu quả, tiết kiệm, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, đạt mục tiêu mà các Nghị quyết của Đảng và Quốc hội đã đề ra.
Nhiều vấn đề vướng mắc đã có cơ chế, phương thức hoặc đường hướng để giải quyết, như vấn đề chỉ định thầu với một số gói thầu, vấn đề mỏ khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường, việc phân cấp cho UBND cấp tỉnh làm cơ quan chủ quản hoặc cơ quan có thẩm quyền thực hiện các đoạn tuyến đường cao tốc, việc chuyển mục đích sử dụng đất rừng và đất trồng lúa nước cho các dự án…
Với các dự án đã hoàn thành, các dự án đã và đang được nghiên cứu, quy hoạch, triển khai, “hình hài” của hệ thống hạ tầng giao thông chiến lược trên cả nước đang ngày càng rõ nét, với các công trình trọng điểm được thúc đẩy như Cảng hàng không quốc tế Long Thành; tuyến đường bộ cao tốc Bắc – Nam phía Đông, các dự án đường vành đai 3, 4 của khu vực động lực Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, kết nối vùng Đồng bằng sông Cửu Long, tuyến nối Tây Nguyên với Nam Trung Bộ, khu vực miền núi phía Bắc, các tuyến đường ven biển, hành lang kinh tế Đông – Tây…
Những dự án này sẽ giúp từng bước hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với các công trình hiện đại, kết nối các trung tâm kinh tế, chính trị, các khu kinh tế, khu công nghiệp trọng yếu, đặc biệt là các vùng kinh tế trọng điểm, tạo sức lan tỏa cao để thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng – an ninh, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội đã được Đại hội XIII của Đảng đề ra.
“Thắt lưng buộc bụng”, huy động mọi nguồn lực cho phát triển
Về lâu dài, Thủ tướng yêu cầu các bộ ngành liên quan tiếp tục nghiên cứu, đề xuất sửa quy định hiện hành để huy động tối đa các nguồn vốn từ bên ngoài nhà nước cho phát triển, trong đó có phát triển hạ tầng, với các mô hình: Lãnh đạo công và quản trị tư; đầu tư công, quản lý tư; đầu tư tư, sử dụng công.
Thủ tướng cho rằng, không nên đặt ra mức tối thiểu để huy động nguồn lực xã hội cho các dự án, mà ngược lại, “thu hút được chỉ 1 đồng vốn tư nhân cũng quý”, còn hơn là không huy động được gì. Thực tế cho thấy tại dự án cao tốc Cam Lâm – Vĩnh Hảo, hiện phần vốn nhà nước khoảng 60%, vốn ngoài nhà nước khoảng 40%, trong khi Luật đầu tư PPP (có hiệu lực sau khi dự án được thông qua) đang quy định vốn nhà nước tham gia dự án PPP chỉ không quá 50% tổng vốn đầu tư.
“Tại sao tư nhân đầu tư rất nhiều vào các nghĩa trang mà không có ai đầu tư vào công viên? Tại sao có những công viên lớn với hàng trăm người làm việc mà ngày càng xuống cấp?”, đây chỉ là một vài trong số nhiều câu hỏi được Thủ tướng đặt ra trong các cuộc làm việc về vấn đề thu hút các nguồn lực. Do đó, trên cơ sở nguyên tắc chung là “hài hòa lợi ích, chia sẻ rủi ro” giữa nhà nước, nhà đầu tư, người dân, việc triển khai cơ chế hợp tác công tác phải hết sức sáng tạo, linh hoạt, tỉnh táo, không cứng nhắc, phù hợp với tình hình thực tiễn.
Nhìn rộng hơn, thể chế cho huy động nguồn lực chỉ là một phần trong bài toán thể chế. Chính phủ, Thủ tướng đã dành ưu tiên rất lớn, đặc biệt với yêu cầu đầu tư cho thể chế tương xứng với một trong ba đột phá chiến lược, chỉ đạo Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải trực tiếp chỉ đạo công tác này.
Những tháng gần đây, Thủ tướng liên tục chủ trì các phiên họp Chính phủ chuyên đề xây dựng pháp luật. Lắng nghe các ý kiến của người dân và doanh nghiệp, các sáng kiến lập pháp liên tục được Chính phủ đề xuất để giải quyết các vấn đề đặt ra trong thực tiễn, thúc đẩy sự phát triển. Đơn cử, ngay sau Hội nghị trực tuyến toàn quốc với doanh nghiệp nhà nước ngày 24/3, Thủ tướng đã chủ trì các cuộc họp Thường trực Chính phủ, Chính phủ về đề nghị sửa đổi, bổ sung Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp.
Thúc đẩy, truyền cảm hứng phát triển cho các địa phương
Cùng với quyết tâm, nỗ lực, giải pháp của Trung ương, các địa phương phải phát huy tối đa những tiềm năng, cơ hội đã có, những kết quả đã đạt được, kế thừa thành quả của các thế hệ lãnh đạo, đồng thời phải tạo ra những cơ hội, động lực mới để thu hút nguồn lực từ bên ngoài, tự phát triển.
Cùng với đó, phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, chủ động, đổi mới, sáng tạo; khuyến khích và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thách thức và quyết liệt, hiệu quả trong hành động vì lợi ích chung; tiếp tục khơi dậy và thúc đẩy khát vọng phát triển đất nước.
Đây là thông điệp nhất quán của Thủ tướng dành cho các địa phương, với mong muốn thúc đẩy, truyền cảm hứng về tinh thần “tự lực, tự cường, đi lên từ bàn tay, khối óc, khung trời, cửa biển, mảnh đất của mình”, không trông chờ, ỷ lại Trung ương, “biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành có thể”.
Trên bình diện quốc gia cũng như địa phương, Thủ tướng nêu rõ, phải lấy nội lực (gồm con người, thiên nhiên và truyền thống lịch sử, văn hóa) là cơ bản, chiến lược, lâu dài quyết định, kết hợp với ngoại lực (nguồn vốn, quản trị, công nghệ…) là quan trọng, đột phá.
Đặc biệt, ông nhấn mạnh yêu cầu đoàn kết, thống nhất, nếu giữ được đoàn kết thống nhất thì kết quả “không được lúc này cũng được lúc khác, không được người này thì được người khác, không được nhiều thì được ít”, nhưng mất đoàn kết là mất tất cả. Nếu đoàn kết trên cơ sở tất cả vì lợi ích quốc gia dân tộc, lợi ích của Nhân dân thì “không có gì khó, không có gì vướng, việc khó khăn đến mấy cũng giải quyết được”.
Ông cũng yêu cầu lãnh đạo các địa phương phải ưu tiên, trực tiếp chỉ đạo công tác xây dựng quy hoạch, xác định đây là nhiệm vụ quan trọng của năm 2022. Công tác quy hoạch phải đi trước một bước, có tư duy đột phá, tầm nhìn chiến lược, ổn định lâu dài, còn đầu tư có thể phân kỳ theo nguồn lực từng giai đoạn.
Có quy hoạch tốt thì mới có đề án, dự án tốt; có đề án, dự án tốt thì mới có nhà đầu tư tốt; có nhà đầu tư tốt thì mới có sản phẩm tốt. Những khu vực lợi thế, tiềm năng nhất phải quy hoạch dành cho sản xuất, kinh doanh, để tạo nguồn thu “nhiều đời, trăm năm”, chứ không phải chỉ “phân lô, bán nền”.
Lãnh đạo Chính phủ cũng dành nhiều thời gian để cùng lãnh đạo các các địa phương phân tích, chỉ ra, tìm giải pháp phát huy được tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh của từng địa phương và cả khu vực, đồng thời hóa giải được những hạn chế, khó khăn, thách thức.
Tại khu vực phía Nam, một điều được Thủ tướng hết sức trăn trở là kết nối giao thông giữa Tây Nguyên với khu vực Đông Nam Bộ và duyên hải Nam Trung Bộ, để làm sao khai phá được hết những tiềm năng của các khu vực chiến lược này. Do đó, phải nghiên cứu triển khai 3 tuyến cao tốc kết nối từ Đắk Nông xuống Đông Nam Bộ, từ Đắk Lắk xuống Khánh Hòa và từ Kon Tum xuống Quảng Nam, mở đường thuận tiện tới các cảng nước biển lớn trong vùng…
Tại công trường cầu Mỹ Thuận 2 trong những ngày cuối kỳ nghỉ Tết, chứng kiến bà con miền Tây vẫn phải chịu cảnh kẹt xe trên đường trở lại miền Đông Nam Bộ, ông đã xuống hiện trường để thăm hỏi, động viên và đốc thúc các đơn vị thi công, mong sớm có cây cầu bắc qua sông Tiền, giúp bà con bớt vất vả, nối gần hơn miền Tây và miền Đông, mang lại động lực phát triển mới cho cả khu vực.
Tại Quảng Ninh, tầm nhìn được lãnh đạo tỉnh xác định từ hơn 10 năm trước là “Hạ Long phải lấy vịnh Cửa Lục làm trung tâm phát triển, Hạ Long gắn với Hoành Bồ” đang được hiện thực hóa với các cây cầu bắc qua vịnh Cửa Lục, đưa Hạ Long thành thành phố hai bên bờ di sản thế giới, tạo không gian phát triển mới với các ngành du lịch, dịch vụ để tạo ra nguồn thu bền vững, chứ không chỉ phát triển bất động sản…
Mặt khác, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, các bộ, ngành phải tin tưởng giao trách nhiệm cho các địa phương, nhất là trong triển khai các dự án hạ tầng chiến lược và khi được giao, địa phương phải cố gắng cao nhất, khẳng định trách nhiệm của mình với dân, với nước.
Về phần mình, các bộ, cơ quan Trung ương tập trung xây dựng chiến lược, quy hoạch; xây dựng thể chế, cơ chế, chính sách; xây dựng công cụ để huy động các nguồn lực; hướng dẫn kiểm tra, giám sát; thanh tra, kiểm tra; khen thưởng, kỷ luật. Những việc mà địa phương làm tốt thì giao địa phương làm.
“Tinh thần của Chính phủ là “phân cấp, phân cấp và phân cấp”, nhưng phân cấp, phân quyền phải đi đôi với tăng cường kiểm tra, giám sát, phân bổ nguồn lực phù hợp và nâng cao năng lực cán bộ thực thi”, Thủ tướng nêu rõ.
Ngay trong điều hành của lãnh đạo Chính phủ, Thủ tướng cũng giao nhiệm vụ rất rõ ràng cho các Phó Thủ tướng, theo tinh thần chịu trách nhiệm trực tiếp và toàn diện trong xem xét, quyết định các vấn đề thuộc thẩm quyền hoặc khi được Thủ tướng Chính phủ ủy quyền, phân công, giao nhiệm vụ.
Chính phủ, Thủ tướng luôn sẵn sàng lắng nghe mọi ý kiến thẳng thắn, chân thành, kể cả các ý kiến “gai góc” nhất từ các địa phương và sẵn sàng xử lý tất cả các kiến nghị. Những vấn đề thuộc thẩm quyền của Chính phủ, của bộ ngành sẽ xử lý ngay, những vấn đề vượt thẩm quyền thì Chính phủ sẽ báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định. Tinh thần của Chính phủ, Thủ tướng khi giải quyết các khó khăn, vướng mắc là “không nói không, không nói khó, không nói có mà không làm”.
Thủ tướng Phạm Minh Chính cho rằng, xử lý các vấn đề tồn đọng, kéo dài, các dự án thua lỗ, yếu kém là những nhiệm vụ rất khó khăn, phức tạp, trong khi thời gian, nguồn lực có hạn, cho nên không thể cùng lúc xử lý tất cả các dự án này.
Thủ tướng đã chỉ đạo phân tích kỹ lưỡng, phân loại, lựa chọn một số để làm trước, làm dứt điểm; sau đó tiếp tục rút kinh nghiệm, phát huy cách làm tại các dự án được xử lý thành công để tiến tới giải quyết các dự án khác; trên cơ sở giữ đúng nguyên tắc, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, phù hợp tình hình cụ thể và mang lại hiệu quả cao.
Kết quả, kế thừa kết quả của nhiệm kỳ trước, đặc biệt từ năm 2021, dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, một số dự án trì trệ đã có bước chuyển biến tích cực. Tiêu biểu là Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2 sau 11 năm đóng băng, ngày 23/3 vừa qua, đã tổ chức đốt lửa lần đầu tổ máy số 1 hướng tới mục tiêu hòa lưới điện vào ngày 30/4 và đốt than lần đầu tổ máy 1 vào ngày 16/6 tới đây.
Cùng với đó, sau hơn 3 năm triển khai Quyết định số 1468/QĐ-TTg của Thủ tướng phê duyệt Đề án xử lý các tồn tại yếu kém của một số dự án, doanh nghiệp chậm tiến độ, kém hiệu quả thuộc ngành công thương, ngày 4/11/2021, Ban chỉ đạo xử lý các tồn tại, yếu kém của các dự án trên thống nhất đưa 5 dự án ra khỏi “danh sách đen” 12 dự án chậm tiến độ, kém hiệu quả.
Suy nghĩ phải kỹ, tư tưởng phải thông, quyết tâm phải cao, nỗ lực phải lớn, hành động quyết liệt, hiệu quả, thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, làm việc nào dứt việc đó.
Đây là kết quả khởi sắc có được từ nỗ lực, quyết tâm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành, doanh nghiệp liên quan trong việc tháo gỡ khó khăn về cơ chế và tinh thần dám làm, dám chịu trách nhiệm.
Mặt khác, trong quá trình điều hành, Chính phủ, Thủ tướng luôn bám sát tình hình để kịp thời xử lý các vấn đề phát sinh đột xuất, phức tạp. Ngay từ cuối tháng 12/2021, trước một số trường hợp giá trúng đấu giá cao gấp nhiều lần so với giá khởi điểm (có trường hợp cao bất thường), Thủ tướng đã ban hành Công điện 1767/CĐ-TTg, yêu cầu kịp thời ngăn chặn, phát hiện, xử lý nghiêm các hành vi lợi dụng đấu giá để gây nhiễu loạn thị trường, trục lợi.
Cũng trong tháng 12/2021, Thủ tướng có Công điện số 8857/CĐ-VPCP yêu cầu Bộ Tài chính khẩn trương thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật về phát hành và sử dụng vốn thu được từ phát hành trái phiếu, nhất là phát hành trái phiếu riêng lẻ của các doanh nghiệp bất động sản, của tổ chức tín dụng có liên quan đến doanh nghiệp bất động sản, các doanh nghiệp có khối lượng phát hành lớn, lãi suất cao, các doanh nghiệp có kết quả kinh doanh thua lỗ, các doanh nghiệp phát hành không có tài sản bảo đảm…
Theo Thủ tướng, một vấn đề có tính quy luật là với các vi phạm liên quan tới phát hành trái phiếu doanh nghiệp, thị trường chứng khoán, bất động sản, dòng tiền đều tìm đến nơi “trú ẩn” cuối cùng là bất động sản. Các cơ quan liên quan cần lưu ý nội dung này để có giải pháp phù hợp.
Uy tín và vị thế Việt Nam tiếp tục được củng cố
Trải qua 1 năm khó khăn chưa từng có, uy tín và vị thế của đất nước tiếp tục được củng cố, nâng cao. Ông Nitin Kapoor, Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Công ty AstraZeneca Việt Nam và các thị trường châu Á mới nổi, cho rằng thông điệp về sức khỏe cộng đồng của Việt Nam được đánh giá cao trên toàn thế giới vì tính nhất quán, rõ ràng và chính xác, nhờ đó đã thúc đẩy niềm tin của người dân đối với việc tiêm vaccine. Mục tiêu của Chính phủ Việt Nam là đạt được miễn dịch cộng đồng khi 70% dân số được tiêm vaccine và đến nay Việt Nam chắc chắn đã đạt được mục tiêu đó, thậm chí còn vượt xa mục tiêu đề ra khi gần 50% dân số đã tiêm liều bổ sung (mũi thứ 3).
Bà Rana Flowers, Trưởng đại diện UNICEF tại Việt Nam thì cho rằng với những nỗ lực kiểm soát đại dịch rất thành công trong hai năm qua, Việt Nam đã trở thành một tiêu chuẩn trên thế giới, đạt tỉ lệ tiêm chủng thuộc nhóm cao nhất toàn cầu để bảo vệ người dân, bao gồm cả những người dân nghèo nhất, những người dễ bị tổn thương nhất. Với sự lãnh đạo tài tình của Chính phủ và sự đoàn kết của người dân, Việt Nam đã sớm đạt được mục tiêu tiêm chủng mà WHO đặt ra nhờ những nỗ lực ngoại giao vaccine và tiến hành tiêm nhanh chóng, an toàn, hiệu quả.
Tổng Giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) Tedros Adhanom Ghebreyesus thì cho rằng việc đạt mục tiêu toàn cầu tiêm chủng cho 70% dân số thế giới vào giữa năm 2022 là vô cùng cần thiết để cứu mạng sống con người, kiểm soát dịch bệnh, giảm thiểu nguy cơ xuất hiện những biến chủng mới và thúc đẩy sự phục hồi toàn diện toàn cầu. Việt Nam là một ví dụ điển hình cho những điều có thể thực hiện được với cam kết chính trị, cộng đồng gắn kết, sự hỗ trợ quốc tế.
Trong quan hệ ngoại giao, với phương châm “tình cảm, chân thành, tin cậy, bình đẳng, tôn trọng, hiệu quả, cùng phát triển”, Việt Nam tiếp tục nhận được sự tin cậy, ủng hộ, chia sẻ của bạn bè, đối tác quốc tế. Trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, Việt Nam nhất quán quan điểm không “chọn bên” mà chọn lẽ phải lớn của thời đại là hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; từng trải qua nhiều cuộc chiến tranh, chịu nhiều hậu quả nặng nề và đến giờ vẫn đang phải giải quyết, cho nên Việt Nam là đất nước yêu chuộng hòa bình, luôn đóng góp tích cực và hành động vì hòa bình, hợp tác, phát triển ở khu vực và thế giới.
Với mục tiêu xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả, Việt Nam đã không bỏ lỡ mà bắt kịp và tích cực tham gia vào các xu thế lớn trên thế giới như xu thế thích ứng an toàn; xu thế mở cửa; xu thế phục hồi, phát triển; xu thế chuyển đổi xanh, chuyển đổi số… Cam kết luôn lắng nghe và tạo thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư, Thủ tướng Phạm Minh Chính cũng luôn đề nghị các nhà đầu tư nâng tỷ lệ nội địa hóa, quan tâm đào tạo nguồn nhân lực, hỗ trợ phía Việt Nam nâng cao năng lực công nghệ, quản trị, chứ không chỉ đóng góp cho Việt Nam bằng các khoản thuế hay thu nhập của công nhân.
Các đối tác quốc tế đều đánh giá cao khát vọng và các cam kết phát triển của Việt Nam, nhất là các cam kết về ứng phó biến đổi khí hậu tại COP26. Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Marc E. Knapper khẳng định Hoa Kỳ tin tưởng Việt Nam sẽ tham gia dẫn dắt, định hình quá trình phục hồi và phát triển sau đại dịch tại khu vực và trên thế giới. Nhiều đối tác quốc tế mong muốn và tin tưởng Việt Nam có thể trở thành một hình mẫu trong chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng sạch, thích ứng biến đổi khí hậu… trong giai đoạn phát triển mới hậu COVID-19.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính khẳng định: Khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức và đạt được kết quả ấn tượng nêu trên là nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, trực tiếp và thường xuyên là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đã kịp thời thay đổi tư duy và biện pháp phòng chống dịch, chuyển hướng linh hoạt trong điều kiện khó khăn; nhờ có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự đoàn kết, đồng tình, hưởng ứng của người dân và cộng đồng doanh nghiệp; sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè, đối tác quốc tế, sự đoàn kết và hỗ trợ của các nước, các tổ chức, cá nhân ở khắp nơi trên thế giới về vaccine, thuốc điều trị, vật phẩm y tế vào đúng thời điểm Việt Nam đang gặp khó khăn nhất.
Thủ tướng thường xuyên nhắc nhở các cấp, các ngành, các địa phương, rằng người dân, doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể, là mục tiêu và là động lực phát triển, mọi cơ chế, chính sách phải vì người dân, doanh nghiệp và người dân, doanh nghiệp phải tích cực tham gia thực hiện mọi chủ trương, cơ chế, chính sách.
Đơn cử, từ kinh nghiệm một người lãnh đạo địa phương và thực tiễn khảo sát, ông nêu rõ, muốn giải phóng mặt bằng tốt cho các dự án, cả hệ thống chính trị phải vào cuộc để làm thật tốt công tác tuyên truyền, vận động giúp người dân hiểu rõ về tầm quan trọng, ý nghĩa của các dự án, đồng thời có chính sách đền bù thỏa đáng, bảo đảm cuộc sống của người dân ở nơi ở mới phải bằng hoặc cao hơn nơi ở cũ, hướng tới năm sau tốt hơn năm trước, nếu không phải có giải pháp ngay.
“Không phải người dân bàn giao mặt bằng xong, vỗ tay, hoan hô là hết trách nhiệm với người dân”, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ và nhấn mạnh, có như vậy, người dân mới tin tưởng và tiếp tục ủng hộ các dự án khác trong tương lai.
Theo Thủ tướng, chúng ta làm việc gì, từ chống dịch, tiêm vaccine, làm cầu, làm đường, phát triển kinh tế… thì mục đích cuối cùng vẫn là phục vụ nhân dân. Không hy sinh tiến bộ, công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần, không để ai bị bỏ lại phía sau.
Thủ tướng nhấn mạnh, chúng ta phải chống dịch thành công để đến hết quý I mở cửa toàn bộ nền kinh tế an toàn và thực hiện đa mục tiêu: Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả. Tất cả vì mục tiêu đất nước hùng cường, thịnh vượng, nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc. Tầm nhìn này đang được hiện thực hóa, được thúc đẩy mạnh mẽ.
Những quyết sách chiến lược mang tính bước ngoặt
Nhìn lại 1 năm của Chính phủ, chuyên gia kinh tế, TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương cho rằng dấu ấn đậm nét nhất của Chính phủ là việc kịp thời thay đổi tư duy, chuyển hướng chiến lược về phòng chống dịch theo chủ trương của Đảng, phù hợp tình hình, xác định “giãn cách xã hội là cấp bách, trước mắt, nhưng vaccine là cơ bản, lâu dài, quyết định”, đặt nền tảng cho việc thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh, mở cửa, phục hồi và phát triển theo Nghị quyết 128 của Chính phủ.
“Có lẽ không ai có thể ngờ Việt Nam có thể vận động, tiếp cận được vaccine và bao phủ vaccine với tốc độ nhanh như vậy. Đây là một thành công ngoài tưởng tượng, là thay đổi có tính bước ngoặt mà nếu không có thì chúng ta không thể mở cửa nền kinh tế. Cách chống dịch trước đó là phù hợp với giai đoạn đó, nhưng không phù hợp với tình hình mới và nếu tiếp tục kéo dài sẽ dẫn tới sụp đổ về mặt kinh tế và người dân cũng không thể chịu đựng được”, ông Cung nhấn mạnh.
Mặt khác, chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội mà Chính phủ xây dựng cho thấy một cách tiếp cận bài bản, khoa học, đồng bộ, tổng thể, toàn diện với các cấu phần hợp lý (y tế và phòng chống dịch; mở cửa nền kinh tế; hỗ trợ doanh nghiệp; đầu tư công; an sinh xã hội; cải cách thể chế).
Một điểm nổi bật khác là Thủ tướng Phạm Minh Chính đã dành ưu tiên hàng đầu, ưu tiên ngay từ đầu cho việc thúc đẩy các công trình hạ tầng chiến lược. “Đây không chỉ là việc nên làm, mà còn là việc phải làm bằng được”, ông Cung nhận định và cho rằng thời gian tới, Chính phủ có thể tiến hành nghiên cứu, tổng kết, đánh giá để phát huy những điểm tích cực, khắc phục căn cơ hơn những hạn chế kéo dài nhiều nhiệm kỳ trong đầu tư công.
Những vấn đề đã “chín”, đã rõ, được thực tiễn chứng minh là đúng, thực hiện có hiệu quả, được đa số đồng tình thì tiếp tục thực hiện; những vấn đề chưa có quy định hoặc vượt quy định thì mạnh dạn thí điểm, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, mở rộng dần, không cầu toàn, không nóng vội.
Thủ tướng Phạm Minh Chính
Thủ tướng cũng cho thấy sự quan tâm mạnh mẽ với công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế; cải cách, thúc đẩy phát triển khu vực doanh nghiệp nhà nước – một lực lượng chưa ai thay thế được và đang giữ nguồn lực rất lớn của đất nước. Vị chuyên gia kinh tế kỳ vọng sẽ được chứng kiến những chuyển biến tích cực, mạnh mẽ hơn trong các lĩnh vực này thời gian tới.
“Phong cách điều hành thẳng thắn, cầu thị, quyết liệt, chân thành, thực tâm của Thủ tướng đã góp phần tăng thêm khả năng thuyết phục của các quyết sách được đưa ra. Chẳng hạn, ở thời điểm có nguy cơ đứt gãy các chuỗi cung ứng, có thể nói là gần như khủng hoảng, việc Thủ tướng kịp thời đối thoại với các doanh nghiệp FDI đã giúp xử lý được vấn đề, thuyết phục được các nhà đầu tư thông cảm, chia sẻ với phía Việt Nam, củng cố lòng tin của họ”, ông Cung nhận xét.
Định hình một Chính phủ hành động, “nói đi đôi với làm”
Cơ bản đồng tình với quan điểm của TS. Nguyễn Đình Cung về những dấu ấn nổi bật của Chính phủ trong 1 năm qua, đại biểu Quốc hội Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam, cho rằng trong bối cảnh thời gian, nguồn lực đều có hạn, Chính phủ, Thủ tướng đã bắt tay vào công việc vừa bảo đảm diện rộng, bao quát, lựa chọn đúng trọng tâm, trọng điểm ưu tiên trong từng thời kỳ; kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc, nhưng hết sức chủ động, linh hoạt, sáng tạo khi giải quyết các vấn đề cụ thể, hướng tới “đa mục tiêu”.
Khi chưa có đủ vaccine, thuốc điều trị, chúng ta buộc phải áp dụng các biện pháp hành chính để phòng chống dịch, dù điều này ảnh hưởng nặng nề tới các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đây là lựa chọn tối ưu ở thời điểm đó, chúng ta không còn cách nào tốt hơn.
Nếu trong những ngày cao điểm chống dịch, khu vực làm việc của Văn phòng Chính phủ dường như sáng đèn suốt ngày đêm thì trong những ngày tổ chức triển khai phục hồi và phát triển kinh tế xã hội, người dân cả nước thấy Người đứng đầu Chính phủ không hề có ngày nghỉ, khi ông dành ngày nghỉ cho các chuyến công tác, thị sát, đôn đốc… liên tục tại các địa phương.
Về phong cách điều hành, Thủ tướng luôn đề cao, coi trọng các phương thức lãnh đạo của Đảng, “đúng vai, thuộc bài” theo đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn như yêu cầu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, thực hiện trách nhiệm nêu gương và tinh thần gương mẫu của người đứng đầu; không lo sợ, hốt hoảng, không dao động, mất bản lĩnh, đồng thời tuyệt đối không chủ quan, lơ là, mất cảnh giác trước các khó khăn, thách thức; nỗ lực “nói đi đôi với làm”.
Lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng có tầm nhìn chiến lược trên cơ sở nắm bắt, phân tích, dự báo tình hình trong dài hạn, vừa nỗ lực ứng phó nhạy bén, kịp thời, hiệu quả với các tình huống bất ngờ, đột xuất, các vấn đề phát sinh. Các quyết sách được đưa ra được xem xét kỹ lưỡng, bảo đảm các cơ sở chính trị, cơ sở pháp lý, cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn.
“Tôn trọng thực tiễn, bám sát thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn, lấy thực tiễn làm thước đo.” – Thủ tướng Phạm Minh Chính
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã giao nhiệm vụ theo hướng rõ ràng, cụ thể về chủ thể chịu trách nhiệm và đảm bảo tính khả thi, đồng thời thường xuyên đôn đốc, đánh giá, kiểm tra, giám sát đến kết quả cuối cùng. Các thông điệp, phát ngôn, chỉ đạo, điều hành của Thủ tướng được phát đi theo hướng giản dị, cô đọng, súc tích, dễ nghe, dễ nhớ, dễ hiểu, dễ thuộc, dễ làm, dễ kiểm tra, giám sát.
Ông Vũ Tiến Lộc đặc biệt ấn tượng với tầm nhìn, thông điệp, quyết tâm rất cao của Thủ tướng về phát triển hạ tầng chiến lược, đặc biệt là dự án cao tốc Bắc – Nam. Trong đó, đẩy mạnh hợp tác đối tác công – tư với phương châm “lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ” là một điểm mấu chốt, đột phá trong tầm nhìn và tư duy kinh tế của Thủ tướng. Ông Lộc kỳ vọng nhiệm kỳ 2021-2025 sẽ là một giai đoạn “nở hoa” của đối tác công tư, không chỉ là huy động nguồn vốn, mà còn huy động sức dân, sức doanh nghiệp, trí tuệ, khát vọng đóng góp… của mọi chủ thể cho sự phát triển của đất nước.
Việc triển khai các mô hình PPP trong thực tế có cả những vấn đề bất cập, nhưng cũng đã có những mô hình hết sức thành công và hiệu quả. Ông Lộc cho rằng, vấn đề không phải nằm ở bản thân các mô hình PPP, PPP không có lỗi, mà vấn đề là ở cách triển khai thế nào cho phù hợp nhất. Thông điệp, tầm nhìn, tư duy này của Thủ tướng về đối tác công tư được các doanh nghiệp trong và ngoài nước đánh giá rất cao.
Ở thời điểm Chính phủ được kiện toàn, người dân và cộng đồng doanh nghiệp đã kỳ vọng người đứng đầu Chính phủ sẽ thúc đẩy một Chính phủ hành động, với những sáng kiến và mô hình cải cách đầy thuyết phục mang dấu ấn tiên phong tại Quảng Ninh, với tư duy và tầm nhìn sắc sảo, với sự quyết đoán trong hành động. Thực tiễn một năm qua đã bước đầu khẳng định điều này.
“Thủ tướng đã cho thấy là con người của thực tế, con người của sự kiên trì, kiên định, con người của hành động. Nếu người đối thoại chưa hiểu, chưa được thuyết phục, ông sẵn sàng trao đi, đổi lại, lật đi lật lại vấn đề. Có thể nói Chính phủ, Thủ tướng không ngần ngại trước bất cứ việc gì, tất cả vì mục tiêu xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, sự hùng cường, thịnh vượng của đất nước và hạnh phúc, ấm no của nhân dân”, ông Lộc nhận xét.
Tùng Lâm