Giáo sư gốc Việt vươn lên top thế giới từng khóc nhiều lần vì ‘dốt tiếng Anh’
Khoảng thời gian hai năm đầu khi mới qua Mỹ, GS Nguyễn Thục Quyên kể từng nhiều lần khóc đòi về Việt Nam vì không hiểu tiếng Anh và phong tục tập quán khác lạ,
Trở về Việt Nam những ngày đầu năm 2022 với vai trò là đồng Chủ tịch Hội đồng sơ khảo giải thưởng VinFuture, GS Nguyễn Thục Quyên chia sẻ về hành trình vượt khó để trở thành nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới bốn năm liền do Thomson Reuters bình chọn.
Trong cuộc trò chuyện với báo chí chiều 17/1, GS Nguyễn Thục Quyên (52 tuổi) mặc áo dài nhung đen, dáng người mảnh và luôn cười. Bà tận dụng mọi lúc để được giao tiếp bằng tiếng Việt.
Chia sẻ về những trải nghiệm của mình, GS Quyên nói “đời rất vui và hạnh phúc”, dù con đường để trở thành nhà khoa học danh tiếng của bà không ít chông gai và nhiều nước mắt.
Sinh ra trong gia đình 5 anh chị em ở ngôi làng nhỏ tại Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk). Sau năm 1975, cha đi cải tạo, anh chị em Quyên theo mẹ, một giáo viên dạy toán cấp 2, đi làm kinh tế mới để kiếm kế sinh nhai. Thời ấy để nấu một bữa cơm bà phải đi nhặt lá để nhóm bếp.
Năm 21 tuổi, Quyên cùng bố mẹ và anh chị em đến Mỹ định cư (theo diện đoàn tụ gia đình – HO). Hai năm đầu, bà nhiều lần khóc đòi về Việt Nam vì không hiểu tiếng Anh và phong tục tập quán khác lạ. “Khó khăn nhất là ngôn ngữ, khi ấy đi đâu cũng phải nhờ người thông dịch”, bà nhớ lại.
GS Quyên bảo, con đường đến với khoa học của mình rất khác so với những nhà khoa học khác. Bà vốn hứng thú với lịch sử thế giới và yêu văn học, thích địa lý nhưng ngặt nỗi khi sang Mỹ để theo các môn đó phải “tra từ điển muốn chết luôn”. Vậy là bà “nhảy” sang lớp Toán, rồi nhận ra bản thân học khoa học cũng khá. Sau đó, bà dần trở nên hứng thú với hóa học và bắt đầu theo đuổi con đường này.
Tháng 9/1995, bà xin chuyển lên ĐH Califonia, Los Angeles và làm thêm trong phòng thí nghiệm với công việc rửa dụng cụ. Thích thú với công việc nghiên cứu, nhưng bà không được nhận vì “có chất giọng nặng”. “Họ bảo với tôi rằng ‘nghiên cứu không phải chuyện ai cũng làm được, cô nên tập trung vào học tiếng Anh hơn đi”, GS Quyên kể lại. Nhận xét này được cô sinh viên ngày ấy coi làm động lực để cố gắng: “không ai có thể ngăn cản bạn thực hiện ước mơ của mình”.
Quyết tâm học tiếng Anh nhanh nhất có thể, bà tham gia bốn lớp tiếng anh dành cho người nước ngoài, rồi tới trung tâm dạy kèm sinh viên để trau dồi thêm. Thấy bố mẹ làm việc vất vả trong nhà hàng và ở hãng may, bà không cho phép bản thân thất bại. Để có tiền đi học, bà cũng làm thêm trong nhà hàng, tiệm nail. “Càng cực tôi càng phải cố gắng”, bà nói.
Sau khi tốt nghiệp vào năm 1997, bà nộp đơn học cao học và chỉ một năm sau đã có bằng thạc sĩ ngành Lý-Hóa. Bà quyết định học tiếp lên tiến sĩ và trong năm cuối của chương trình, trở thành một trong 7 nghiên cứu sinh xuất sắc của Đại học Califonia, Los Angeles được trao học bổng.
Tháng 6/2001, bà nhận bằng tiến sĩ, trước cả những sinh viên trong phòng thí nghiệm nơi bà từng phải rửa dụng cụ thí nghiệm cho họ. Bà chính thức giảng dạy và nghiên cứu tại Đại học California, Santa Barbara (UCSB) từ hè năm 2004.
GS Quyên kể, 5 năm đầu sự nghiệp đầy rẫy khó khăn. Là một người trẻ, lại là phụ nữ, việc nhận được lời mời thuyết giảng gần như rất hiếm. “Nếu được mời thuyết giảng, đương nhiên họ sẽ mời người được giải Nobel”, GS Quyên nói “trừ khi họ từ chối thì mới tìm đến tôi”.
Để được công nhận, GS Quyên phải chứng minh bằng sự đóng góp của mình trong lĩnh vực. Các nghiên cứu của bà xoay quanh tính chất điện tử của polyelectrolytes liên hợp, giao diện trong các thiết bị quang điện tử, việc tạo và vận chuyển điện tích trong chất bán dẫn hữu cơ, vật liệu mới cho các ứng dụng pin mặt trời hữu cơ, tự lắp ráp phân tử, xử lý vật liệu, đặc tính kích thước nano của pin mặt trời hữu cơ và vật lý thiết bị.
Lý giải về chọn hướng nghiên cứu vật liệu mới cho ứng dụng pin mặt trời hữu cơ, GS Quyên nói đó là bởi “suốt 16 năm thời thơ ấu lớn lên trong cảnh không có điện ở quê nhà”. Bà cho hay mối quan tâm đặc biệt đến năng lượng mặt trời luôn ở trong tiềm thức hướng về quê hương.
Những năm gần đây, nhóm của GS Quyên hướng tới công trình nghiên cứu có tính ứng dụng thực tiễn cao, trong đó làm về phân tử hữu cơ mặt trời. Nhóm nghiên cứu xác định được một dạng tiêu hao năng lượng khiến pin mặt trời hữu cơ có hiệu suất thấp hơn so với pin làm từ silicon trong việc chuyển đổi ánh sáng mặt trời thành điện năng. Họ chứng minh được có thể ngăn chặn điều này bằng cách kiểm soát các phân tử bên trong pin mặt trời.
Bằng cách tập trung công nghệ dựa trên các phân tử hữu cơ (gốc carbon), họ sản xuất sản phẩm bán trong suốt có thể ứng dụng trong ngành công nghiệp. GS Quyên cho biết, chúng có thể được sơn lên cửa kính, phía bên ngoài của tòa nhà để tạo ra điện năng. “Đây là những ưu điểm mà các tấm silicon thông thường không thể làm được”, GS Quyên nói. Ngoài ra, việc sản xuất loại pin này cũng thân thiện với môi trường, trong đó chúng mỏng hơn 1.000 lần so với pin mặt trời silicon và có thể được sản xuất thuận tiện giống như mực in, hoặc phủ thành cuộn, phun.
Bên cạnh đó, GS Quyên cũng nghiên cứu công trình cảm biến sinh học, được ứng dụng để “giao tiếp” giữa các hệ thống điện tử hữu cơ và sinh học nhằm ứng dụng trong y tế. “Thông qua cảm biến này sẽ giúp phát triển công nghệ có độ nhạy cao, nhanh hơn, rẻ hơn trong việc phòng chống đại dịch, ví dụ như việc xét nghiệm Covid-19 nhanh”, GS Quyên nói.
Nhắc lại thời gian khi trở thành giáo sư ở Mỹ, bà kể có nhiều lúc “chỉ có một mình”. Việc tự xây dựng một phòng thí nghiệm từ căn phòng trống đến gây quỹ nghiên cứu, thành lập đội ngũ, hay điều hành lab của riêng mình là thách thức với một giáo sư trẻ. “Đó không phải là con đường dễ dàng, đã có lần tôi khóc, tôi cũng từng nghĩ đến việc từ bỏ”. Thế nhưng, GS Quyên nói bản thân chưa bao giờ hối hận khi chọn đi theo con đường khoa học. Với bà làm khoa học là luôn học hỏi những điều mới.
Đến nay bà đã có 7 phòng thí nghiệm riêng cho nhóm nghiên cứu. Đồng thời là một trong số ít nhà khoa học nữ 4 năm liền được vinh danh trong danh sách hơn 4.000 nhà khoa học toàn cầu vào top 1% những nhà khoa học có nhiều trích dẫn nhất thế giới (HCR).
Lần trở về này, GS Quyên nói rất vinh dự và hãnh diện khi đất nước có giải thưởng khoa học lớn, để khiến cộng đồng khoa học quốc tế có cách nhìn khác về Việt Nam. Trong số nhiều lý do khiến bà trở thành thành viên Hội đồng “tôi mong muốn thực hiện sứ mệnh tạo ra những thay đổi tích cực trong cuộc sống hàng ngày của hàng triệu người người trên trái đất sẽ hưởng lợi từ giải thưởng này”, bà nói.
Bà cho biết thêm, rất quan tâm tới những nhà nghiên cứu trẻ tại Việt Nam. Trong suốt sự nghiệp, bà đã chứng kiến những học sinh, sinh viên người Việt sáng tạo, chăm chỉ, có sự tò mò, luôn sẵn sàng học hỏi. “Nếu có những cơ hội và sự chỉ dẫn, những nhà nghiên cứu trẻ ở Việt Nam có thể đạt được những điều vĩ đại như những nhà khoa học khác trên toàn thế giới”.
Nữ giáo sư hy vọng có thể xây dựng viện nghiên cứu với phòng lab tối tân, mở những workshop để kết nối các nhà khoa học trẻ Việt với thế giới bên ngoài. “Qua quỹ VinFuture, chúng tôi tin rằng những nhà khoa học trẻ có cơ hội cạnh tranh với những tên tuổi trong làng khoa học và tiến gần hơn tới ước mơ”.
GS Nguyễn Thục Quyên là Giáo sư Khoa Hóa và Hóa sinh tại Đại học California, Santa Barbara (UCSB). Bà chính thức giảng dạy và nghiên cứu tại Đại học California, Santa Barbara (UCSB) từ hè năm 2004.
Bà từng cộng tác nghiên cứu tại Khoa Hóa học và Trung tâm Nano tại Đại học Columbia, cùng Giáo sư Louis Brus and Colin Nuckolls nghiên cứu về quá trình tự lắp ráp phân tử, đặc tính kích thước nano và các thiết bị liên quan.
Bà cũng đã dành thời gian tại Trung tâm Nghiên cứu IBM tại T. J. Watson (Yorktown Heights, New York) cộng tác với GS. Richard Martel và Phaedon Avouris về điện tử phân tử.
Trong sự nghiệp khoa học, bà đã nhận được nhiều giải thưởng danh giá, gồm: Giải thưởng Nhà nghiên cứu trẻ của Văn phòng Nghiên cứu Hải quân 2005, Giải thưởng Quỹ Khoa học Quốc gia CAREER 2006, Giải thưởng Harold Plous 2007. Năm 2008, GS Quyên nhận Giải thưởng Học giả – Giáo viên Camille Dreyfus, sau đó lần lượt là các giải Nghiên cứu viên Alfred Sloan năm 2009, Giải thưởng nghiên cứu khoa học của Quỹ Khoa học Quốc gia Mỹ 2010, Giải thưởng Nghiên cứu khoa học Alexander von Humboldt năm 2015, Nghiên cứu viên của Hiệp hội Hóa học Hoàng gia năm 2016.
Bà từng được bình chọn là Trí tuệ Khoa học có ảnh hưởng nhất Thế giới năm 2015, 2016, 2017 và 2018. Đồng thời, bà nằm trong top 1% nhà nghiên cứu khoa học vật liệu được trích dẫn nhiều nhất thế giới của Thomson Reuters và Clarivate Analytics.
Quỳnh Anh