Dẫn độ nguyên Thứ trưởng Hồ Thị Kim Thoa từ Pháp về chịu tội như nào?
Sau khi nghỉ hưu, nguyên Thứ trưởng Bộ Công Thương Hồ Thị Kim Thoa sang Pháp sinh sống, mới đây, bà Thoa bị Bộ Công an khởi tố. Dư luận đặt câu hỏi, việc dẫn độ bà Thoa về nước chịu tội như thế nào?
Mới đây, ngày 13/7, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an thông tin, liên quan tới vụ án “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí” tại khu đất 2-4-6 Hai Bà Trưng, Quận 1, TPHCM, đơn vị này đã ra quyết định truy nã bị can Hồ Thị Kim Thoa – Nguyên cựu Thứ trưởng Bộ Công thương.
Liên quan vụ án trên, bà Hồ Thị Kim Thoa cùng ông Vũ Huy Hoàng (nguyên Bộ trưởng Bộ Công thương) và Phan Chí Dũng (nguyên Vụ trưởng Vụ Công nghiệp nhẹ Bộ Công thương) được xác định có vai trò chính trong sai phạm tại dự án 2-4-6 Hai Bà Trưng (TP.HCM).
Đáng chú ý, tại bản kết luận, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an cho biết, bị can Hồ Thị Kim Thoa bỏ trốn, Bộ Công an đã ra quyết định truy nã bị can, quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án đối với bị can và quyết định tạm đình chỉ điều tra bị can đối với bị can Hồ Thị Kim Thoa. Đồng thời, Bộ Công an cho hay, khi nào bắt được bị can sẽ tiến hành phục hồi điều tra và xử lý theo quy định của pháp luật.
Được biết, Văn phòng Interpol Việt Nam là một thành phần của Interpol quốc tế sẽ có văn bản thông báo về việc truy nã quốc tế này để truy tìm đối tượng ở các nước.
Dư luận đặt câu hỏi việc dẫn độ nguyên Thứ trưởng Hồ Thị Kim Thoa từ Pháp về chịu tội sẽ được thực hiện như nào?
Theo quy định tại Luật tương trợ tư pháp, cụ thể tại điều 32, chương 4 nêu rõ, dẫn độ là việc một nước chuyển giao cho nước khác người có hành vi phạm tội hoặc người bị kết án hình sự đang có mặt trên lãnh thổ nước mình để nước được chuyển giao truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành án đối với người đó.
Cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền của Việt Nam có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài dẫn độ cho Việt Nam người có hành vi phạm tội hoặc bị kết án hình sự mà bản án đã có hiệu lực pháp luật để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành án.
Tại điều 33, quy định trường hợp bị dẫn độ nêu rõ, người có thể bị dẫn độ theo quy định của Luật này là người có hành vi phạm tội mà Bộ luật hình sự Việt Nam và pháp luật hình sự của nước yêu cầu quy định hình phạt tù có thời hạn từ một năm trở lên, tù chung thân hoặc tử hình hoặc đã bị Tòa án của nước yêu cầu xử phạt tù mà thời hạn chấp hành hình phạt tù còn lại ít nhất sáu tháng; Hành vi phạm tội của người quy định tại khoản 1 Điều này không nhất thiết phải thuộc cùng một nhóm tội hoặc cùng một tội danh, các yếu tố cấu thành tội phạm không nhất thiết phải giống nhau theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước yêu cầu; Trường hợp hành vi phạm tội của người quy định tại khoản 1 Điều này xảy ra ngoài lãnh thổ của nước yêu cầu thì việc dẫn độ người phạm tội có thể được thực hiện nếu theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hành vi đó là hành vi phạm tội.
Theo quy định, yêu cầu dẫn độ được gửi thông qua đường ngoại giao. Văn bản yêu cầu dẫn độ phải kèm theo các tài liệu mô tả chi tiết về người bị yêu cầu dẫn độ, bao gồm các thông tin để xác định đặc điểm nhận dạng, quốc tịch và nơi cư trú của người đó…Khi yêu cầu dẫn độ liên quan đến người chưa bị kết án, phải kèm theo bản sao lệnh bắt của thẩm phán hay người có thẩm quyền khác của Việt Nam và văn bản xác nhận theo quy định của bên được yêu cầu dẫn độ, việc chuẩn bị xét xử về tội phạm đã thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam, thông tin xác nhận người bị dẫn độ là người được nêu trong lệnh bắt.
Cũng theo quy định, để dẫn độ tội phạm đang trốn ở nước ngoài về xử lý, trước hết quốc gia đó phải ký Hiệp định tương trợ tư pháp với quốc gia được đề nghị dẫn độ. Trong trường hợp chưa ký kết thì có thể theo điều ước đa phương về dẫn độ tội phạm mà hai nước cùng tham gia. Quốc gia này muốn dẫn độ tội phạm đang trốn ở quốc gia kia về xử lý thì phải theo một điều ước quốc tế mà hai bên là thành viên.
Cùng với đó, để dẫn độ tội phạm từ một quốc gia không tham gia ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp với Việt Nam thì quá trình đàm phán về dẫn độ cũng phức tạp, lâu dài. Tuy nhiên, trong trường hợp đó sẽ có thể vận dụng quan hệ ngoại giao giữa hai nước trên cơ sở thương lượng cụ thể. Bởi, trong thực tiễn, khi chưa có hiệp định về dẫn độ ở dạng song phương hay đa phương, có thể thực hiện việc dẫn độ theo nguyên tắc “có đi, có lại” giữa hai quốc gia.
Trao đổi với PV Kiến Thức, luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn Luật sư TP Hà Nội cho rằng, hiện nay quy định về dẫn độ tội phạm bỏ trốn ra nước ngoài đang gặp nhiều khó khăn.
Luật sư Cường cho biết, Luật tương trợ tư pháp 2007 đã dành riêng một chương để quy định về dẫn độ với nhiều quy định chi tiết. Tuy nhiên, trong luật này, nội dung dẫn độ lại quá mờ nhạt và trên thực tế, nhiều quy định của luật chưa phù hợp với các điều ước quốc tế đa phương và song phương có quy định về dẫn độ mà Việt Nam là thành viên; chưa phù hợp với thông lệ pháp lý quốc tế cũng như thực tiễn xử lý các vụ việc dẫn độ của Việt Nam. Nhiều trường hợp chưa được quy định trong luật dẫn đến việc cơ quan có thẩm quyền khó khăn, lúng túng trong xử lý.
Ngoài ra, một số tội danh trong Bộ luật hình sự Việt Nam lại không có trong quy định pháp luật hình sự một số nước trên thế giới, do vậy việc Việt Nam yêu cầu dẫn độ đối với tội phạm là rất khó khăn đối với những nước được yêu cầu mà không có thiện chí.
Trong trường hợp đối tượng truy nã bỏ trốn sang quốc gia chưa ký kết hiệp định song phương hoặc đa phương liên quan đến việc dẫn độ thì chỉ có thể thông qua con đường ngoại giao để đề nghị nước bạn bắt giữ đối tượng truy nã để dẫn độ về Việt Nam.
Theo luật sư Cường, luật tương trợ tư pháp 2007 không còn đáp ứng được yêu cầu về phòng chống tội phạm và dẫn độ trong bối cảnh hội nhập diễn biến phức tạp. Đồng thời cho rằng, thực tiễn về tình hình dẫn độ tội phạm trong thời gian qua đặt ra yêu cầu phải cụ thể hóa quy định về dẫn độ, cụ thể là phải có khung pháp lý và quy định rõ ràng về dẫn độ. Để ngăn chặn tình trạng tội phạm bỏ trốn ra nước ngoài và tạo thuận lợi trong việc dẫn độ, cần nghiên cứu ban hành đạo luật chuyên biệt về dẫn độ với điều kiện phải bảo đảm các yêu cầu về chính trị, ngoại giao, pháp luật.
Bà Thoa sai phạm gì đến mức bị khởi tố, truy nã?
Tại bản kết luận điều tra vụ án trên nêu rõ, tháng 5/2010, bị can Thoa được bổ nhiệm giữ chức vụ Thứ trưởng Bộ Công thương, được phân công phụ trách trực tiếp Vụ Công nghiệp nhẹ (nay là Cục Công nghiệp) và Tống công ty Sabeco; chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng vê thực hiện quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp Nhà nước và vốn Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác (trong đó có Tổng Công ty Sabeco) thông qua bộ phận quản lý vốn nhà nước tại Tổng Công ty Sabeco.
Mặc dù biết khu đất 2-4-6 Hai Bà Trưng (Quận 1, TPHCM) đã được sắp xếp, giao cho Bộ Công thương, Tổng Công ty Sabeco (là doanh nghiệp Nhà nước thuộc Bộ Công thương, vốn Nhà nước chiếm 89,59%) để quản lý, sử dụng, đầu tư, xây dựng khách sạn 6 sao, trung tâm thương mại, trung tâm hội nghị, hội thảo và văn phòng cho thuê, không được thành lập pháp nhân mới.
Tuy nhiên, bà Thoa vẫn báo cáo bị can Vũ Huy Hoàng phê duyệt; đã ký 3 văn bản chấp thuận chủ trương cho Tổng Công ty Sabeco liên doanh, liên kết thành lập Công ty Sabeco Pearl, lợi dụng việc sắp xếp cơ sở nhà đất của doanh nghiệp Nhà nước làm thủ đoạn để dần chuyển dịch quyền sử dụng khu đất 2-4-6 Hai Bà Trưng từ Tổng Công ty Sabeco sang Công ty Sabeco Pearl (từ tài sản Nhà nước sang tư nhân).
Căn cứ ý kiến phê duyệt, chỉ đạo của bị can Hồ Thị Kim Thoa, ông Phan Đăng Tuất (Chủ tịch HĐQT, phụ trách bộ phận quản lý vốn nhà nước tại Tổng Công ty Sabeco đã ký Công văn số 374/BSG-ĐT, kèm theo các vãn bản chấp thuận của Bộ Công thương) đề nghị UBND TPHCM chấp thuận cho Công ty Sabeco Pearl được làm chủ đầu tư dự án, thực hiện nghĩa vụ tài chính và chuyển quyền sử dụng đất từ Tổng Công ty Sabeco sang Công ty Sabeco Pearl. Từ đó để các sở, ngành thuộc UBND TPHCM đã tham mưu cho bị can Nguyễn Hữu Tín (nguyên Phó Chủ tịch UBND TPHCM) ký ban hành Quyết định số 3186/QĐ-UBND cho Công ty Sabeco Pearl thuê đất trái các quy định pháp luật.
Ngay sau khi Công ty Sabeco Pearl được làm chủ đầu tư và được chuyển quyền sử dụng đất (tháng 6/2015), mặc dù chưa triển khai hoạt động nhưng đến tháng 2/2016, lợi dụng chủ trương thoái vốn của Chính phủ, thực hiện ý kiến chỉ đạo của bị can Vũ Huy Hoàng, bà Thoa đã ký 2 văn bản chỉ đạo Tổng Công ty Sabeco thoái 26% vốn góp tại Công ty Sabeco Pearl và phê duyệt giá khởi điểm để đấu giá là 13.247 đồng/cồ phần; không xem xét đánh giá chỉ tiêu quy hoạch, kiến trúc của khu đất đã được UBND TPHCM chấp thuận bổ sung thêm chức năng căn hộ ở, thoái toàn bộ 26% vốn góp củạ Tổng Công ty Sabeco tại Công ty Sabeco Pearl.
Bằng các thủ đoạn thực hiện hành vi phạm tội nêu trên của bị can Hồ Thị Kim Thoa, quyền sử dụng khu đất 2-4-6 Hai Bà Trung có diện tích 6.080m2 bị dịch chuyển từ doanh nghiệp Nhà nước sang doanh nghiệp tư nhân. Hậu quả, thiệt hại, thất thoát và lãng phí do hành vi phạm tội của bị can Hô Thị Kim Thoa và đồng phạm gây ra cho ngân sách Nhà nước trong công tác quản lý, khai thác và sử dụng khu đất 2-4-6 Hai Bà Trưng xảy ra trong một thời gian dài từ thời điểm ban hành quyết định giao đất, cho thuê đất (ngày 30/6/2015) đến khi tội phạm bị phát hiện, ngăn chặn (thời điểm kliởi tố vụ án hình sự ngày 8/11/2018), theo Cơ quan điều tra là đặc biệt lớn.
Tâm Đức/KT