Con đường phát triển “một Việt Nam không ngừng mơ ước”
“Việt Nam không ngừng mơ ước, khát vọng hướng về phía trước, nhưng thực tại còn nhiều điều buộc phải đối mặt, vượt qua. Những hạn chế yếu kém không làm chúng tôi chùn bước mà càng thôi thúc chúng tôi không chỉ có khát vọng, ước mơ mà phải hành động, vươn lên mạnh mẽ” – là khẳng định Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại phiên họp tổng thể với chủ đề “Hành động vì một Việt Nam thịnh vượng” của Diễn đàn Cải cách và Phát triển Việt Nam 2019 diễn ra chiều ngày 19/9.
Thủ tướng đề nghị sớm đưa Việt Nam thoát khỏi nhóm nước thu nhập thấp
Theo Thủ tướng, vào những thập niên đầu sau chiến tranh, đất nước Việt Nam khi đó còn muôn vàn khó khăn, tỷ lệ nghèo đói rất cao, những gia đình Việt Nam chỉ mơ ước có được bữa cơm no, có áo mặc ấm, con em được đến trường học hành tử tế, một cuộc sống không còn đói rét và vất vả.
Nhưng chỉ sau 30 năm Đổi mới, kinh tế Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng cao và đó là cơ sở để tỷ lệ đói nghèo ở mức rất cao – 53% vào năm 1992 (tính theo mức 1,9 USD/ngày và theo tỷ giá PPP năm 2011), giảm 10 lần, còn 5,23% năm 2018, theo chuẩn nghèo đa chiều. Đồng thời, tầng lớp trung lưu cũng tăng lên hơn 15% dân số và đang tăng nhanh.
Thủ tướng nhấn mạnh và cho biết: “Xét về quy mô dân số, có thể nói rằng đây là một trong những cuộc vượt đói nghèo vĩ đại trong lịch sử các nước”. Những trẻ em sinh ra từ thập niên đầu Đổi mới nay đã trưởng thành và chính họ sẽ tiếp nối mơ ước của các bậc cha mẹ, thế hệ đi trước với những khát vọng bay cao hơn, vươn xa hơn. Uớc mơ, khát vọng hướng về phía trước dù rất đẹp, nhưng thực tại là những điều chúng ta “buộc phải đối mặt, buộc phải vượt qua”.
Vì thế, với quan điểm nhìn thẳng vào những hạn chế, yếu kém, Thủ tướng đồng tình, đánh giá cao nhiều nhận định xác đáng của các chuyên gia quốc tế về những tồn tại, hạn chế của Việt Nam.
Như vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro; khả năng chống chịu, thích ứng với tác động bên ngoài của Việt Nam còn yếu; năng lực tiếp cận nền kinh tế số còn nhiều hạn chế. Gần đây, tốc độ tăng GDP có xu hướng chững lại, nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình và tụt hậu còn cao. Năm 2018, dân số Việt Nam đứng thứ 3 trong ASEAN, nhưng quy mô kinh tế là thứ 6…
“Nhưng những hạn chế yếu kém đó không làm chúng tôi chùn bước mà càng thôi thúc chúng tôi không chỉ có khát vọng, ước mơ, mà phải hành động, phải vươn lên mạnh mẽ và trong tiến trình còn nhiều gian khó thách thức này rất mong có sự hợp tác, đồng hành của quý vị và cộng đồng quốc tế”, Thủ tướng nhấn mạnh.
Chia sẻ với các đối tác phát triển, các chuyên gia, Thủ tướng cũng cho biết, Việt Nam xây dựng Chiến lược Phát triển giai đoạn 2021-2030 trong bối cảnh quốc tế, khu vực có nhiều biến động, khó lường với nhiều dự báo đầy lo âu về căng thẳng địa chính trị, chiến tranh thương mại, chủ nghĩa bảo hộ, suy thoái kinh tế, thương mại toàn cầu, biến đổi khí hậu nặng nề…
Thực tế trên, đòi hỏi Việt Nam phải có bản lĩnh vững vàng, phát huy những thành tựu, kinh nghiệm vừa qua để tự tin tiếp tục thực hiện 3 đột phá chiến lược về hoàn thiện thể chế, phát triển hạ tầng và phát huy nguồn nhân lực với những quan điểm và hành động mạnh mẽ.
Theo đó, Thủ tướng cho biết, các bước đi của Việt Nam trong giai đoạn tới, trước hết là phải gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định chính trị xã hội cho phát triển nhanh, bền vững.
Thứ hai, thực hiện Đổi mới mạnh mẽ thể chế kinh tế, chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện đại hội nhập, phục vụ người dân, doanh nghiệp, hướng tới nền kinh tế số, xã hội số;
Thứ ba, phát huy nội lực, giải phóng các nguồn lực tiềm năng trong xã hội trên cơ sở thúc đẩy mạnh mẽ khoa học – công nghệ mới, phát triển khu vực tư nhân năng động, sáng tạo, lấy doanh nghiệp làm trung tâm, động lực cho phát triển; đặc biệt là đầu tư cho giáo dục thế hệ trẻ dám ước mơ, dám hành động để vươn xa.
Thứ tư, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, có sức chống chịu và khả năng thích ứng cao; thực hiện Mục tiêu phát triển bền vững SDG 2030 của LHQ mang thịnh vượng đến mọi nhà, không để ai bị bỏ lại phía sau.
Thứ năm là mở rộng đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng, thực hiện hiệu quả các Hiệp định FTA đã ký, tích cực tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu… Thủ tướng nhấn mạnh: “Bẫy thu nhập trung bình chính là cái đe dọa trực tiếp đến sự phát triển của Việt Nam”.
Việt Nam cần bứt tốc để trở thành quốc gia hiện đại, công nghiệp
Theo định nghĩa của Ngân hàng Thế giới, bẫy thu nhập trung bình, được hiểu là sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia đứng mãi trong một khoảng thời gian dài mà không thể vươn lên cao hơn mức thu nhập bình quân đầu người cơ bản là 4.000-6.000USD/năm.
Hay theo cách định nghĩa của Quỹ Tiền tệ Quốc tế thì đó chính là hiện tượng các nền kinh tế sau thời gian tăng trưởng nhanh bắt đầu chững lại và mắc kẹt ở mức thu nhập trung bình và không tiệm cận được mức của nhóm các nền kinh tế có thu nhập cao. Tóm lại, có thể hiểu bẫy thu nhập trung bình chính là sự chững lại của một nền kinh tế và không thể tiếp tục tiến bộ hơn trong thời gian dài.
Con đường của Việt Nam để trở thành một nền kinh tế hiện đại, công nghiệp chỉ mới bắt đầu và những thành tựu trong quá khứ không còn đảm bảo một tương lai thành công nữa.
Trong 30 năm qua, nền kinh tế đã tăng trưởng trung bình gần 7%/năm. Nhờ đó, thu nhập bình quân đầu người đã tăng gần 5 lần. Việt Nam của ngày hôm nay đã trở thành nền kinh tế đang lên với thu nhập trung bình thấp và một thế lực về xuất khẩu. Tăng trưởng đã diễn ra bao trùm với tỷ lệ nghèo giảm xuống dưới 7%, so với hơn 60% của những năm cuối thập niên 1980.
Chúng ta đều biết thể chế thị trường hiệu quả, tính minh bạch, rõ ràng và trách nhiệm giải trình là những yếu tố cơ bản của sự phát triển. Hơn nữa, khi Việt Nam đã trở thành một nước có thu nhập trung bình, những thách thức phát triển sẽ ngày càng phức tạp và mang tính đa ngành hơn nữa. Do đó, sự phối hợp hiệu quả giữa các bộ, ban ngành cũng như giữa các cơ quan trung ương và địa phương hiện nay quan trọng hơn bao giờ hết.
Việt Nam cũng sẽ phải huy động và sử dụng những nguồn lực khan hiếm của mình một cách hiệu quả để tài trợ cho một chương trình phát triển đầy tham vọng. Tăng cường huy động vốn từ nguồn thu trong nước, bổ sung bằng những nỗ lực nâng cao hiệu quả chi tiêu và năng lực quản lý nợ, đóng vai trò quan trọng để đảm bảo có thể đạt được mục tiêu phát triển mà không tăng nợ đến mức không bền vững.
Cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng, nguồn vốn ODA hiện có sẽ phải được sử dụng một cách chiến lược và hiệu quả hơn để bổ sung nguồn vốn đầu tư công trong nước và tận dụng được những lợi ích phi thương mại, bí quyết kinh doanh và đầu tư tư nhân.
Với khát vọng xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường, đến năm 2030 trở thành nước công nghiệp, thuộc nhóm dẫn đầu các nước có thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước công nghiệp phát triển hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thủ tướng cũng đề nghị Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư và lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương lắng nghe những chia sẻ về kinh nghiệm và kiến thức quốc tế, những ý kiến nhận định, đề xuất của các chuyên gia quốc tế và trong nước, để tìm ra những cách làm phù hợp cho Việt Nam. Từ đó, đóng góp trực tiếp cho việc hoàn thiện dự thảo Chiến lược phát triển 2021-2030, Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021-2025.
Hồng Đinh