Chuyên gia: Chống COVID-19, Việt Nam là hình mẫu ‘cường quốc’
Việt Nam cho thấy sự chủ động, thể hiện tinh thần trách nhiệm với cộng đồng quốc tế trong cuộc chiến chống đại dịch COVID-19.
Tiến sĩ Lê Đình Tĩnh, Viện trưởng Viện nghiên cứu chiến lược ngoại giao chia sẻ trên trang The Sunday Guardian về nỗ lực của Việt Nam trong cuộc chiến chống COVID-19. VTC News xin đăng tải lại bài viết này.
Tính đến ngày 27/4/2020, Việt Nam có 270 ca mắc COVID-19, không có trường hợp thiệt mạng nào và 222 người đã bình phục. Dù vậy, so với Hàn Quốc, New Zealand hay Phần Lan, Việt Nam ít được truyền thông quốc tế nhắc đến hơn hơn khi đề cập tới những hình mẫu thành công trong việc đẩy lùi đại dịch COVID-19, dù dân số của Việt Nam là 95,54 triệu người, nhiều hơn cả ba nước kể trên cộng lại.
Điều này dễ hiểu vì Hàn Quốc, New Zealand và Phần Lan từ lâu đã nổi tiếng với hệ thống y tế tiên tiến, bao gồm năng lực kiểm soát dịch bệnh. Một yếu tố quan trọng khác là năng lực tài chính.
Theo Tổ chức y tế thế giới (WHO), Hàn Quốc dành ra 8,1% GDP cho y tế, trong khi ở Việt Nam chỉ là 5,6%. Để có thể thực hiện xét nghiệm COVID-19 trên diện rộng cần có những nguồn lực rất mạnh, đặc biệt là tài chính và công nghệ.
Điều này có nghĩa là Việt Nam không chọn và không đủ sức làm theo phương pháp của Hàn Quốc hay Đức, nước kiểm soát COVID-19 hiệu quả hơn các thành viên EU khác một phần nhờ vào hệ thống y tế tiên tiến và khả năng đáp ứng chi phí lớn hơn.
Việt Nam đã làm gì trong việc kiểm soát đại dịch? Thành công thường là sự tổng hòa của nhiều yếu tố. Dù vậy đối với trường hợp của Việt Nam, có một yếu tố nổi bật hơn cả.
Phương pháp mà Việt Nam lựa chọn được gọi là “mô hình chi phí thấp”, theo cách John Reed mô tả trong một bài báo trên Financial Times. Việt Nam không chọn xét nghiệm diện rộng mà thay vào đó là kiểm soát người nhiễm bệnh và áp dụng các biện pháp truy dấu tiếp xúc với những người nghi nhiễm. Sử dụng những công cụ kỹ thuật số như Bluezone, cơ quan y tế Việt Nam có thể dễ dàng định vị và xử lý các nguy cơ tiềm tàng.
Mô hình này đi kèm với hai yếu tố khác ít được nhắc đến hơn. Một là lòng tin và sự đầu tư vào công tác phòng ngừa. Ở Việt Nam, khẩu hiệu “phòng bệnh hơn chữa bệnh” xuất hiện ở mọi nơi. Thực tế, Việt Nam đang vận hành hai hệ thống song song là phòng ngừa và điều trị ở tất cả các tỉnh thành, địa phương. Mục tiêu chung là chăm sóc y tế toàn dân. Trẻ em Việt Nam tất cả đều được tiêm vaccine nhiều loại.
Yếu tố thứ hai là các cơ quan y tế được công nhận ở Việt Nam, cả trong lĩnh vực nghiên cứu lẫn thực tiễn. Ví dụ, Trung tâm Nghiên cứu Hệ thống Y tế – Đại học Y Hà Nội (CHSR) đứng thứ 23 trong bảng xếp hạng các tổ chức nghiên cứu, phân tích và vận động chính sách hàng đầu thế giới, theo đánh giá của Đại học Pennsylvania, Mỹ.
Về mặt thực hành, các y bác sĩ ở Việt Nam có rất nhiều cơ hội để vận dụng các kiến thức của mình vào thực tiễn do số lượng bệnh nhân nhập viện quá nhiều. Rất nhiều bác sĩ từ Indonesia, Malaysia, Philippines và Nhật Bản chọn Việt Nam làm nơi rèn luyện tay nghề. Một điểm đáng chú ý khác là bộ dụng cụ xét nghiệm COVID-19 do Việt Nam chế tạo đã được WHO công nhận và đạt chuẩn châu Âu.
Nỗ lực tổng thể của Việt Nam trong cuộc chiến chống COVID-19 đã nhận được sự tuyên dương từ WHO. Takeshi Kasai, Giám đốc WHO vùng Tây Thái Bình Dương, nói rằng Việt Nam đang kiểm soát được sự lây nhiễm của COVID-19 nhờ sự lãnh đạo quyết liệt của chính phủ và sự hợp tác của người dân.
Chính phủ Việt Nam, thực tế không muốn khhoe khoang sự thành công mà họ gọi là “bước đầu”, cùng với cảnh báo rằng những mối đe dọa nguy hiểm hơn đang rình rập phía trước. Phương pháp của Việt Nam cũng không phải để cho nước khác học theo mà chỉ áp dụng trong nước.
Ưu tiên hàng đầu là sức khỏe và sự an toàn của người dân cũng như duy trì hoạt động của nền kinh tế. Ưu tiên thứ nhất là cơ sở cho tất cả mọi thứ. Ưu tiên thứ hai là để đảm bảo tất cả các nguồn lực vẫn có thể đáp ứng được.
Nhìn từ Hà Nội, với tỉ lệ tăng trưởng 7,02% năm 2019, các nhà hoạch định chính sách có lẽ muốn duy trì sự vận động này khi đất nước đang cố vượt qua bẫy thu nhập trung bình. Nhưng điều quan trọng nhất phải được đặt lên hàng đầu. COVID-19 là một phép thử và sự phát triển kinh tế chỉ có thể đạt được nếu vượt qua thách thức về mặt y tế.
Bên cạnh việc tập trung phòng chống dịch trong nước, các nhà ngoại giao Việt Nam cũng hướng ra thế giới, không phải vì danh tiếng hay nâng cao hình ảnh. Nguyên tắc dẫn đường trong chính sách ngoại giao của Việt Nam là đảm vai trò một thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
Trong một thế giới hội nhập, sự cho đi cũng quan trọng như nhận lại. Đó là lý do vì sao Việt Nam hỗ trợ khẩu trang cho Ấn Độ, Trung Quốc, Mỹ, châu Âu, Nhật Bản và các nước láng giềng. Việt Nam đã chứng tỏ mình là một thành viên quan trọng của các tổ chức quốc tế cả trong giai đoạn bình thường lẫn khi khủng hoảng. Trong vai trò chủ tịch ASEAN năm nay, Việt Nam đã triệu tập cuộc họp để bàn bạc và hợp tác hành động chống dịch COVID-19. Một ví dụ khác là khoản hỗ trợ 50 nghìn USD cho WHO.
Một Việt Nam chủ động trên trường quốc tế phù hợp với hình mẫu của một trung cường đang lên như mô tả của viện Lowy, Australia. Việt Nam không tự gọi mình như vậy, nhưng từ quan điểm nghiên cứu, biết được một quốc gia có thể làm gì và nên làm gì rất có ích cho việc tái định vị. COVID-19 là một minh chứng hùng hồn.
PV/VTC