Bộ trưởng Công an được quyết định áp dụng biện pháp cảnh vệ khi cần thiết
Chiều 28-6, với đa số đại biểu tán thành, Quốc hội thông qua Luật Cảnh vệ (sửa đổi); luật mới có nhiều quy định mới về đối tượng cảnh vệ, biện pháp và chế độ cảnh vệ.
Theo Luật Cảnh vệ sửa đổi, trong trường hợp cần thiết để bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, bảo đảm công tác đối ngoại, Bộ trưởng Bộ Công an quyết định áp dụng biện pháp cảnh vệ phù hợp đối với đối tượng không thuộc trường hợp quy định tại Luật Cảnh vệ.
Quá trình xây dựng luật, bên cạnh việc nhất trí, một số ý kiến đề nghị làm rõ tiêu chí, trường hợp cấp thiết; đánh giá sự tương thích về thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Công an với quy định của Hiến pháp…
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết từ tháng 7-2018 đến nay, Bộ trưởng Bộ Công an đã quyết định áp dụng biện pháp cảnh vệ đối với 56 trường hợp không thuộc đối tượng cảnh vệ đã được quy định trong Luật Cảnh vệ để đáp ứng yêu cầu công tác bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội hoặc theo đề nghị của các bộ, ngành, cơ quan đại diện ngoại giao nước ngoài tại Việt Nam.
Thực tế cho thấy công tác bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội luôn tiềm ẩn yếu tố bất ngờ, khó lường đòi hỏi pháp luật phải có những quy định linh hoạt để thuận lợi cho việc thực hiện.
Do đó, luật sửa đổi chỉ quy định khái quát trường hợp, tiêu chí áp dụng “trong trường hợp cần thiết, để bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, bảo đảm công tác đối ngoại”. Nếu quy định cụ thể, liệt kê trường hợp hoặc tiêu chí áp dụng sẽ khó bảo đảm tính đầy đủ, kịp thời, linh hoạt để giải quyết các tình huống đột xuất cần triển khai công tác cảnh vệ.
Theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, theo quy định pháp luật hiện hành, Bộ trưởng Bộ Công an có thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp nghiệp vụ, bao gồm cả biện pháp cảnh vệ để bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
Vì thế, luật sửa đổi bổ sung quy định Bộ trưởng Bộ Công an quyết định áp dụng biện pháp cảnh vệ đối với trường hợp không thuộc đối tượng cảnh vệ là phù hợp với thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Công an, đáp ứng yêu cầu công tác bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội và công tác cảnh vệ.
Luật Cảnh vệ sửa đổi cũng quy định ngoài các đối tượng cảnh vệ thuộc nhóm con người hiện nay, 3 đối tượng cảnh vệ được bổ sung, gồm: Thường trực Ban Bí thư, Viện trưởng VKSND tối cao và Chánh án TAND tối cao.
Quá trình xây dựng luật, nhiều ý kiến nhất trí bổ sung 3 đối tượng cảnh vệ như trên. Tuy nhiên, cũng có ý kiến đề nghị cân nhắc việc bổ sung Thường trực Ban Bí thư vì hiện nay đã có đối tượng cảnh vệ là Ủy viên Bộ Chính trị.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng việc quy định đối tượng cảnh vệ là người giữ chức vụ, chức danh lãnh đạo chủ chốt, lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước và Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam theo hướng liệt kê là thống nhất với nội dung tại Kết luận số 35-KL/TW. Theo kết luận này, lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam gồm: Thường trực Ban Bí thư, Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư…
Luật Cảnh vệ hiện hành đã quy định người giữ chức vụ, chức danh Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng (Ủy viên Ban Bí thư) là đối tượng cảnh vệ; đồng thời một người hưởng nhiều chế độ cảnh vệ khác nhau thì người đó được hưởng chế độ cảnh vệ ở mức cao nhất.
Từ những căn cứ đã nêu, việc bổ sung người giữ chức vụ, chức danh Thường trực Ban Bí thư vào đối tượng cảnh vệ là phù hợp và không mâu thuẫn với quy định tại Quy chế làm việc của Ban Bí thư.
Bảo Trâm