3 tiền đề cho đổi mới mô hình tăng trưởng của Việt Nam
Việt Nam có nhiều tiền đề quan trọng để nhanh chóng tạo nên 7 điều kiện để phát triển và ứng dụng hiệu quả AI, tạo đột phá tăng năng suất lao động và đổi mới mô hình tăng trưởng.
Ông Nguyễn Thiện Nhân, Ủy viên Bộ Chính trị, nêu ra 7 lý do để ngành công nghiệp điện tử – công nghệ thông tin – truyền thông của Việt Nam có thể phát triển vượt bậc.
Ông cũng đánh giá Việt Nam đang có nhiều tiền đề quan trọng để nhanh chóng tạo nên 7 điều kiện để phát triển và ứng dụng hiệu quả TTNT, tạo đột phá tăng năng suất lao động của đất nước và đổi mới mô hình tăng trưởng trong 25 năm tới.
Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội TP.HCM Nguyễn Thiện Nhân chia sẻ với PV trong một bài viết dài 11 trang với chủ đề: “20 năm phát triển vượt bậc của công nghiệp công nghệ thông tin 2000 – 2020 và triển vọng đột phá tăng năng suất lao động và đổi mới mô hình tăng trưởng của Việt Nam năm 2020 – 2045”. BBT trích đăng một số ý quan trọng.
20 năm phát triển vượt bậc của CNTT-TT
Trước năm 2000, công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin, viễn thông ở Việt Nam được thống kê riêng. 20 năm qua là quá trình tích hợp, hội tụ của 3 lĩnh vực này ngày càng sâu sắc, giờ đây, được coi là ngành công nghiệp điện tử – công nghệ thông tin – truyền thông, gọi tắt là công nghiệp CNTT-TT.
Từ chỗ là một ngành công nghiệp nhỏ bé của Việt Nam vào năm 2000, sau 20 năm, CNTT-TT đã trở thành ngành kinh tế (cấp 2) lớn nhất của Việt Nam, có mức tăng trưởng cao nhất, có năng suất lao động cao nhất và giá trị xuất khẩu lớn nhất.
Năm 2000, đóng góp của ngành này chỉ khoảng 0,5% GDP của Việt Nam, với doanh thu 300 triệu USD và số lao động chỉ chiếm khoảng 0,11% tổng số lao động của Việt Nam. Đây được coi là ngành kinh tế (cấp 2) nhỏ, thua kém các ngành khác như nông nghiệp, dầu khí, thương mại, xây dựng. Sau 20 năm, công nghiệp CNTT-TT đã có bước phát triển nhảy vọt.
Nếu có thể tăng gấp 2 lần số lao động ngành CNTT-TT (lên 2 triệu người) thì đóng góp của ngành CNTT-TT có thể đạt gần 30% GDP
Nguyễn Thiện Nhân, Ủy viên Bộ Chính trị
Doanh thu vào năm 2019 là 120 tỷ USD, gấp 400 lần năm 2000, tương ứng mức tăng trưởng bình quân 37%/năm trong suốt 19 năm. Ngành này đóng góp 14,3% vào GDP của Việt Nam, gấp 28 lần năm 2000 (0,5% GDP).
Số lao động là hơn 1 triệu người, gấp 20 lần năm 2000, chiếm 1,88% tổng số lao động Việt Nam. Năng suất lao động gấp 7,6 lần năng suất lao động bình quân cả nước. Ngành này cũng đóng góp 89,2 tỷ USD, chiếm 33,7% giá trị xuất khẩu của Việt Nam. Giá trị xuất khẩu một lao động tạo ra một năm gấp 18 lần bình quân cả nước.
Lao động của ngành CNTT-TT chỉ là 1,03 triệu người, thấp hơn 5 ngành cấp 2 khác, nhưng đóng góp vào GDP của Việt Nam là lớn nhất (14,3%). Ngành nông lâm ngư nghiệp, ngành kinh tế cấp 1, với 18,8 triệu lao động, đóng góp 13,96% GDP, thấp hơn ngành CNTT-TT.
Giá trị đóng góp của ngành CNTT-TT vào GDP còn lớn hơn tổng giá trị đóng góp của 4 ngành du lịch, giáo dục và đào tạo, vận tải kho bãi và y tế là 13,7% GDP với tổng số lao động là 7,26 triệu người. Tức là, do năng suất cao gấp 7,6 lần năng suất lao động bình quân cả nước mà 1 triệu lao động CNTT-TT đóng góp vào GDP nhiều hơn 7,28 triệu lao động ngành thương mại, 7,26 triệu lao động của 4 ngành du lịch, giáo dục và đào tạo, ý tế và vận tải kho bãi, 18,8 triệu lao động của ngành nông lâm ngư nghiệp và hơn gấp 2 lần đóng góp của 4,6 triệu lao động ngành xây dựng.
Nếu có thể tăng gấp 2 lần số lao động ngành CNTT-TT (lên 2 triệu người) thì đóng góp của ngành CNTT-TT có thể đạt gần 30% GDP. Đây chính là triển vọng vô cùng to lớn để tăng trưởng kinh tế bằng năng suất lao động cao dựa trên ngành CNTT-TT.
Năm 2019 xuất khẩu của Việt Nam đạt 264,2 tỷ USD, trong đó xuất khẩu điện thoại, máy vi tính, sản phẩm điện tử là 89,2 tỷ USD; dệt may là 32,85 tỷ USD; giày dép là 18,32 tỷ USD; máy móc, thiết bị khác là 18,3 tỷ USD; nông sản là 16,91 tỷ USD; gỗ và các sản phẩm gỗ là 10,6 tỷ USD. Như vậy ngành CNTT-TT có giá trị xuất khẩu lớn nhất cả nước, gấp 2,7 lần ngành hàng thứ 2 là dệt may.
7 lý do cho ngành CNTT-TT Việt phát triển
Vì sao công nghiệp CNTT-TT của Việt Nam có thể phát triển vượt bậc như vậy? Theo tôi, có một số nguyên nhân chính sau:
Một là, nhân lực của Việt Nam cần cù, chịu khó, có trình độ đào tạo cơ bản (trung học phổ thông) tốt. Xếp hạng đánh giá học sinh trung học cơ sở của Việt Nam do quốc tế thực hiện năm 2012 và 2018 ở 3 lĩnh vực: Đọc hiểu, khoa học và toán, học sinh ở Việt Nam luôn nằm trong tốp 10 nước cao nhất thế giới (Đánh giá PISA). Đào tạo đại học của Việt Nam cũng có nền tảng cơ bản tốt, còn hạn chế về thực hành. Qua thực tế và huấn luyện bổ sung, đội ngũ kỹ sư Việt Nam làm ở các doanh nghiệp đều nhanh chóng làm chủ các công nghệ tiên tiến.
Hai là, năng lực toán học của học sinh và sinh viên Việt Nam nhìn chung thuộc nhóm trên trung bình. Các cuộc thi toán quốc tế, đội tuyển Việt Nam thường nằm trong 10 nước có kết quả cao nhất thế giới. Qua 10 năm thực hiện “Chương trình trọng điểm Quốc gia phát triển Toán học giai đoạn 2010 – 2020”, toán học Việt Nam có số công trình khoa học được công bố năm 2019 gấp 2,5 lần năm 2010, xếp hạng từ thứ 55 trên thế giới năm 2010 đã tăng lên thứ 35 – 40 năm 2019, đứng đầu ASEAN từ 2014.
Việc gia tăng tỷ suất lợi nhuận do áp dụng trí tuệ nhân tạo từ 6% đến 21% là rất đáng kể với các doanh nghiệp, là thời cơ để các doanh nghiệp cạnh tranh, mở rộng thị phần, tăng trưởng nhanh hơn.
Nguyễn Thiện Nhân, Ủy viên Bộ Chính trị
Ba là, do GDP đầu người của Việt Nam thấp (thu nhập trung bình thấp) nên chi phí lao động ở Việt Nam thấp so với các nước có thu nhập cao (trên 15.000 USD/người/năm) thường là từ 6 đến 10 lần. Đây là điều rất hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.
Bốn là, nhân lực Việt Nam dồi dào, cả ngắn hạn và dài hạn. Với dân số gần 100 triệu người, tỷ suất sinh đạt mức thay thế 20 năm liên tục 2000 – 2020 (bình quân xấp xỉ 2,1 con/ phụ nữ) và với chính sách dân số mới của Việt Nam từ 2015, duy trì tỷ suất sinh thay thế lâu dài, thì nhiều khả năng Việt Nam có thể duy trì tỷ suất sinh thay thế hơn 10 năm nữa. Tức là, Việt Nam là nước duy nhất trên thế giới có cơ cấu dân số vàng liên tục 30 năm.
Năm là, thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam ngày càng hoàn thiện theo thông lệ quốc tế, môi trường kinh doanh được cải thiện, đối thoại và Chính phủ điện tử ngày càng phát huy tác dụng.
Sáu là, cước phí viễn thông nói chung, đặc biệt là Internet băng rộng cố định của Việt Nam là rẻ nhất khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Bảy là xã hội Việt Nam ổn định, suốt 45 năm qua (1975 – 2020) không có biến động xã hội theo hướng bất ổn, xung đột chính trị, tôn giáo, dân chủ ngày càng được phát huy, hội nhập quốc tế ngày càng mạnh mẽ, uy tín Việt Nam được nâng cao, chương trình xóa đói, giảm nghèo được kết quả quan trọng.
Tám là, Việt Nam nằm ở châu Á, khu vực có dân số lớn nhất thế giới (hơn 4,4 tỷ người, chiếm 58% dân số thế giới), có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất so với các châu lục khác, kết nối giao thông đường thủy và hàng không thuận lợi với thế giới.
Từ các lợi thế trên, Việt Nam đã thu hút được ngày càng nhiều các nhà đầu tư từ các nước, trong đó có lĩnh vực Công nghiệp điện tử, CNTT, Viễn thông. Ví dụ như: Công ty Intel đã đầu tư 1,5 tỷ USD, Công ty LG 1,5 tỷ USD, Microsoft đầu tư hơn 300 triệu USD, Samsung đầu tư 14,8 tỷ USD. Tổng cộng đầu tư nước ngoài ở ngành CNTT-TT trên 20 tỷ USD.
Như vậy, với khoảng 1 triệu lao động trong ngành CNTT-TT năm 2019, giá trị đầu tư nước ngoài trên một lao động là khoảng: 20.000 USD/người lao động. Trong toàn bộ các ngành kinh tế, không kể nông nghiệp và ngành CNTT-TT, tổng đầu tư nước ngoài thực hiện là 133 tỷ USD.
So với tổng số lao động trong các ngành có đầu tư nước ngoài (không kể nông nghiệp, CNTT-TT, lao động là công chức, viên chức, lực lượng vũ trang, lao động trong tổ chức Đảng, tổ chức chính trị xã hội) năm 2019 là 31 triệu người, thì giá trị đầu tư nước ngoài bình quân 1 lao động là khoảng: 4.300 USD/lao động. Tức là suất đầu tư nước ngoài trên một lao động ngành CNTT-TT gấp 4,65 lần suất đầu tư nước ngoài trên một lao động của các ngành kinh tế khác (không tính nông nghiệp).
Với suất đầu tư cao như vậy, các doanh nghiệp CNTT-TT có các thiết bị công nghệ tiên tiến, sản xuất chủ yếu tự động hóa, dó đó năng suất lao động cao.
Thời cơ từ cách mạng công nghiệp 4.0 và trí tuệ nhân tạo
Thế giới đã trải qua 4 cuộc cách mạng công nghiệp, trong đó cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, từ 2010, chưa biết bao giờ kết thúc và đang chuyển sang cách mạng công nghiệp lần thứ 5. Có thể dự báo kết thúc khoảng 2065 – 2070 (kéo dài khoảng 55 – 60 năm).
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, về khoa học dựa trên tất cả các ngành khoa học và ứng dụng khoa học gắn với quá trình cơ khí hóa, điện khí hóa, tự động hóa – tin học hóa và Internet (đã diễn ra trong 250 năm 1760 – 2010), đồng thời dựa trên các lĩnh vực khoa học mới như: Quang lượng tử, vật lý hạt nhân; giải mã và biến đổi gen; ngôn ngữ học; trí tuệ nhân tạo; điện toán đám mây, dữ liệu lớn; chuỗi khối; Internet vạn vật… Từ đó tạo ra các thiết bị thông minh được nhúng trí tuệ nhân tạo, có thể tự động kết nối với nhau, sử dụng ngôn ngữ tự nhiên để điều khiển các hoạt động của thiết bị.
Các doanh nghiệp sử dụng các công nghệ mới của giai đoạn cách mạng công nghiệp lần thứ 4 có khả năng cung cấp các giải pháp mới cho nhu cầu của các ngành kinh tế và toàn xã hội, phục vụ người dân một cách hiệu quả cao, từ đó có lợi nhuận lớn và phát triển rất nhanh.
Việt Nam đang có nhiều tiền đề quan trọng để nhanh chóng tạo nên 7 điều kiện để phát triển và ứng dụng hiệu quả trí tuệ nhân tạo
Nguyễn Thiện Nhân, Ủy viên Bộ Chính trị
Dữ liệu 10 doanh nghiệp có doanh số lớn nhất toàn cầu ở 2 thời điểm năm 2006 và 2016 cho thấy chỉ trong 10 năm, các công ty dựa trên công nghệ mới đã chiếm 8/10 công ty có doanh thu lớn nhất thế giới, trong khi 2006 có tới 8/10 công ty dầu khí, ngân hàng là các công ty có doanh thu lớn nhất.
Các ứng dụng các công nghệ 4.0 mới trải qua 10 năm đầu tiên trong chu kỳ phát triển khoảng 55-60 năm, do đó, còn quá sớm để nhận ra đầy đủ các công nghệ tạo đột phá cho phát triển cho giai đoạn này. Đến nay, một số nghiên cứu nhận định rằng: Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, trong đó có vai trò đặc biệt của trí tuệ nhân tạo, sẽ tạo ra mức tăng năng suất lớn hơn mức tăng năng suất của tất cả 3 cuộc cách mạng công nghiệp trước đó đem lại trong 250 năm.
Về mặt kĩ thuật, có thể gọi đơn giản hóa cách mạng công nghiệp lần thứ 4 là “Giai đoạn phổ cập trí tuệ nhân tạo”. Đây chính là thời cơ phát triển vượt bậc cho các nước, các doanh nghiệp sớm có chiến lược nghiên cứu và ứng dụng trí tuệ nhân tạo thực sự hiệu quả và là nguy cơ tụt hậu, thua cuộc trong cạnh tranh của các nước, các doanh nghiệp không nhận thức đúng về vai trò của nghiên cứu và ứng dụng trí tuệ nhân tạo.
Việc áp dụng trí tuệ nhân tạo (AI) theo dự báo của các tổ chức tư vấn quốc tế sẽ đem lại gia tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh ở tất cả ngành nghề và kéo theo tăng tỷ suất lợi nhuận so với trường hợp không ứng dụng trí tuệ nhân tạo.
Việc gia tăng tỷ suất lợi nhuận do áp dụng trí tuệ nhân tạo từ 6% đến 21% là rất đáng kể với các doanh nghiệp, là thời cơ để các doanh nghiệp cạnh tranh, mở rộng thị phần, tăng trưởng nhanh hơn. Ngược lại các doanh nghiệp không áp dụng trí tuệ nhân tạo sẽ mất dần năng lực cạnh tranh, nguy cơ bị đào thải khỏi thị trường.
3 tiền đề đổi mới mô hình tăng trưởng cho Việt Nam
Từ 2017 đến 2020, 50 nước trên thế giới đã xây dựng và công bố chiến lược quốc gia về phát triển và ứng dụng trí tuệ nhân tạo. Trong 50 nước đã công bố chiến lược phát triển trí tuệ nhân tạo có 7 nước thuộc nhóm thu nhập trung bình thấp (2020): Pakistan (GDP/người 1.482 USD), Ấn Độ (1.877 USD), Kenya (2.075 USD), Tunisia (3.295 USD), Philippines (3.373 USD), Việt Nam (3.498 USD), Indonesia (4.038 USD). Điều đó chứng tỏ mức độ thu nhập đầu người cao không phải là điều kiện tiên quyết để triển khai nghiên cứu và ứng dụng trí tuệ nhân tạo.
Theo chúng tôi, có 7 điều kiện để có thể nghiên cứu, phát triển ứng dụng hiệu quả trí tuệ nhân tạo (TTNT) là: Quốc gia có nền tảng công nghiệp CNTT-TT tương đối mạnh, đã số hóa cơ bản tài nguyên dữ liệu quốc gia; Có nguồn nhân lực phong phú, trình độ ngày càng cao, đặc biệt trong lĩnh vực toán học, CNTT-TT và TTNT; quốc gia có chiến lược nghiên cứu, phát triển và ứng dụng TTNT hợp lý; hình thành hệ sinh thái TTNT của quốc gia, với một số trung tâm công nghệ 4.0 và TTNT của đất nước làm động lực; phát triển 1 số trung tâm máy tính hiệu năng cao, đạt trình độ quốc tế (siêu máy tính); hợp tác quốc tế mạnh mẽ về đào tạo, nghiên cứu và ứng dụng TTNT, thu hút đầu tư nước ngoài về nghiên cứu, sản xuất các sản phẩm công nghệ 4.0 và TTNT; coi trọng xuất khẩu các sản phẩm và dịch vụ công nghệ 4.0 trong đó có các sản phẩm, giải pháp ứng dụng TTNT.
Đối chiếu với tình hình đất nước hiện nay, từ bài học của 20 năm phát triển vượt bậc công nghiệp CNTT-TT, Việt Nam đang có nhiều tiền đề quan trọng để nhanh chóng tạo nên 7 điều kiện để phát triển và ứng dụng hiệu quả TTNT, tạo đột phá tăng năng suất lao động của đất nước và đổi mới mô hình tăng trưởng trong 25 năm tới.
Một là, chúng ta có nền tảng CNTT-TT tương đối mạnh để thực hiện cách mạng công nghiệp 4.0, bước vào “Giai đoạn phổ cập TTNT” trong 25 năm tới. Hiện nay CNTT-TT là ngành kinh tế lớn nhất Việt Nam, đóng góp 14,3% GDP. Có thể dự báo đến 2025 tỷ trọng này sẽ trên 22%.
Việt Nam đã bắt đầu triển khai dịch vụ viễn thông 5G từ 2020, là một trong 10 nước đầu tiên trên thế giới. Số thuê bao điện thoại di động trên 100 triệu dân đã vượt 100% từ năm 2009, hiện nay là 140%. Có 70 triệu người sử dụng Internet, chiếm 72% dân số.
Yếu kém của Việt Nam ở đây là chưa số hóa đầy đủ các tài nguyên dữ liệu quốc gia và của các doanh nghiệp, tổ chức. Tuy nhiên, tháng 6/2020, Chính phủ Việt Nam đã công bố Chương trình Quốc gia về chuyển đổi số của Việt Nam. Theo Fobes Việt Nam, giá trị kinh tế số của Việt Nam từ 2015 đến 2019 đã tăng 4 lần, từ 3 tỷ USD lên 12 tỷ USD.
Hai là, nguồn nhân lực sẽ tiếp tục là một lợi thế của Việt Nam trong quá trình “phổ cập TTNT”, mặc dù giai đoạn đầu 2020 – 2025 còn nhiều khó khăn do thiếu hụt nhân lực có chất lượng.
Hiện nay, ở Việt Nam có khoảng 700 người làm việc ở lĩnh vực TTNT, trong đó có 300 chuyên gia, còn ở nước ngoài có khoảng 900 người Việt Nam đang làm việc ở lĩnh vực này.
Năng lực đào tạo đại học ngành CNTT-TT của Việt Nam hiện nay là hơn 51.000 sinh viên/năm, đào tạo nghề (Cao đẳng, trung cấp) ngành CNTT-TT là 10 hơn 68.000 học viên/năm, tổng cộng là khoảng 120.000 học viên, sinh viên/năm.
Nếu chưa tính tới việc tiếp tục mở rộng quy mô đào tạo, thì đến năm 2030, Việt Nam sẽ có thêm hơn 1,2 triệu nhân lực CNTT-TT, tức là gấp 2 lần số nhân lực CNTT-TT hiện nay.
Nếu Việt Nam có kế hoạch phát triển nhân lực tốt, hợp tác chặt chẽ giữa doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo, thực hiện đại học chia sẻ và hợp tác với nước ngoài để đào tạo có chất lượng cao, thì đến 2045 chúng ta có thể có 3,5 triệu người làm việc trong CNTT-TT và TTNT, trong đó, hơn nửa triệu người làm việc về TTNT.
Việt Nam vừa hoàn thành “Chương trình trọng điểm quốc gia phát triển Toán học 2010 – 2020”, đưa xếp hạng Toán học Việt Nam từ vị trí 55 trên thế giới lên thứ 35 – 40, đứng đầu các nước ASEAN từ 2014. Ngày 22/12/2020, Chính phủ đã phê duyệt “Chương trình trọng điểm quốc gia phát triển Toán học 2021 – 2030”. Đây là tiền đề rất quan trọng để hình thành “Hệ sinh thái Toán học Việt Nam”, làm tiền đề rất cơ bản cho “Hệ sinh thái Trí tuệ nhân tạo Việt Nam”.
Ba là, TP.HCM đã xây dựng đề án “Thành phố Thủ Đức trở thành đô thị sáng tạo, tương tác cao”, là thành phố kinh tế tri thức, thành phố TTNT lớn Việt Nam, với dân số hiện nay là hơn 1 triệu người và quy hoạch tới 2035 sẽ là hơn 2 triệu người. Ngoài tài nguyên 4.0 hiện có của thành phố Thủ Đức hiện nay: Khu Công nghệ cao TP.HCM, cụm đại học với hơn 100.000 sinh viên và hơn 2.000 tiến sĩ là giảng viên, Khu đô thị mới Thủ Thiêm với Trung tâm tài chính khu vực của Việt Nam, hệ thống giao thông thuận tiện, Công viên lịch sử – văn hóa dân tộc, Sân golf Thủ Đức, sẽ có thêm các hạ tầng 4.0 mới.
Đó là Trung tâm khởi nghiệp sáng tạo lớn nhất Việt Nam, Công viên phần mềm Quang Trung Thành phố Thủ Đức, Trung tâm tính toán hiệu năng cao (siêu máy tính) hiện đại nhất ASEAN, Nhà hát giao hưởng, nhạc và vũ kịch, Trung tâm Triển lãm quốc tế.
Thành phố Thủ Đức là thành phố kinh tế tri thức, là cửa ngõ của TP.HCM để kết nối, lan tỏa, hợp tác với Đồng Nai và Bình Dương tạo nên vùng công nghiệp 4.0 lớn nhất của Việt Nam. Giai đoạn 25 năm phát triển sắp tới của Việt Nam 2020 – 2045 nằm trọn vẹn trong hơn nửa đầu giai đoạn “Phổ cập TTNT” của nhân loại với đột phá chưa từng có về tăng năng suất lao động.
Với kết quả, bài học của 20 năm phát triển vượt bậc Công nghiệp CNTT-TT, Việt Nam sẽ tạo được phát triển đột phá về năng suất lao động và chuyển đổi mô hình tăng trưởng trong 25 năm tới.
Nguyễn Thiện Nhân, Ủy viên Bộ Chính trị